TIN VUIFlowchart: Document: Số 
156
28/09/2008

  

 

 

 

 

 

 

 

 


 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

mục lục

SỐNG LỜI CHÚA..

Chúa Nhật XXVI Thường Niên A..

PHÚC ÂM: Mt 21, 28-32.

HỐI HẬN CHÌA KHÓA CỦA HỒI SINH..

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.

Cảm nghĩ của giới tu sĩ Pháp về ĐGH Bênêđictô XVI.

Công bố Huấn Thị mới của Bộ Giáo Dục Công Giáo.

Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 Giám Mục.

Đức Thánh Cha bênh vực hoạt động của Đức Piô XII.

Nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Pio XII trong việc cứu sống người do thái

Đại công chúa hoàng gia Tây Ban Nha yết kiên ĐTC Benedictô XVI.

Ấn Độ: Kitô hữu phản đối vụ đốt phá nhà thờ chính toà ở miền trung Ấn.

Vatican gửi thông điệp đến người Hồi giáo và kêu gọi bảo vệ phẩm giá gia đình.

Bài Giảng ĐTC Benedictô XVI trong Thánh Lễ Mẹ Đau Thương Thứ Hai 15/9/2008 cho Thành Phần Bệnh Nhân trước tiền đường của Đền Thờ Đức Mẹ Mân Côi Lộ Đức.

Giáo hội Hàn Quốc tổ chức nghi lễ kính nhớ tổ tiên để an ủi người di cư.

Văn thư của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam gửi Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội về sự việc Tòa Khâm Sứ Và Giáo Xứ Thái Hà.

QUAN ĐIỂM CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY..

NHỮNG DIỄN BIẾN VỤ VIỆC TÒA KHÂM SỨ GIÁO XỨ THÁI HÀ..

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

Một bài thơ.

LÊ VŨ CẦU : GƯƠNG MẶT ĐIỂN HÌNH CỦA “NGƯỜI THỢ GIỜ THỨ 11”.

AI ĐÃ THI HÀNH Ý MUỐN CỦA NGƯỜI CHA?.

NGÔI MỘ CỦA THÁNH PHAOLÔ..

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và tư tưởng Tin lành   theo cụ Jean Guitton.

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH..

NGHỆ THUẬT LÀM ÔNG NỘI.

Viêm xoang ở trẻ em..

ĐỌC SÁCH..

MÓN NỢ CŨ.. P

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật XXVI Thường Niên A

PHÚC ÂM: Mt 21, 28-32

"Nó hối hận và đi làm. Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: 'Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!' Nó thưa lại rằng: 'Con không đi'. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: 'Thưa cha, vâng, con đi'. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".

Đó là lời Chúa.

HỐI HẬN CHÌA KHÓA CỦA HỒI SINH

 

Dụ ngôn hai người con được diễn tả rất sống động, gần gũi, ấn tượng qua thái độ đáp trả của các con khi cha gọi đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhất đáp “KHÔNG” nhưng sau đó “ HỐI HẬN” rồi đi làm. Đứa con thứ hai đáp “VÂNG” nhưng sau đó không đi làm.  Hai đứa con này, đại diện cho hai lớp người, ta thường thấy trong xã hội. Hai lớp người này chỉ khác nhau giữa nói và làm. Nhiều người nói mà không làm, vì nói dễ làm khó. Nói hay làm dở, dở đến nỗi người ta hết tin tưởng, do đó lời nói không mang một ý nghĩa nào cả, hãy chờ xem, họ làm như thế nào đã, rồi mới tin. Một số người rất hào phóng trong lời nói của họ. Họ dám hứa hẹn đủ thứ trên đời, nhưng bạn không thể tin tưởng vào họ. Lời nói không hề có giá trị. Lời hứa của họ tan biến ngay, tựa như muối tan trong nước vậy. Thật bực bội khi phải đối khó với những người này. Con ngượi đã tự đánh mất niềm tin. Nhưng có những người khác rất đắn đo trong lời nói. Họ không dễ dàng hứa hẹn gì cả. Nhưng khi họ đã hứa điều gì, thì bạn có thể tin tưởng rằng họ sẽ tôn trọng lời hứa đó. Lời hứa của họ giống như một sợi dây xích, ràng buộc chân họ. Thật dễ chịu khi tiếp xúc với những người này.

 

Cả hai người con đều không chấp nhận lệnh của cha mình từ đầu, người con thứ nhất nói không nhưng sau đó suy nghĩ lại và đi làm, trái lại người con thứ hai nói vâng rồi lại không đi làm, tại sao vậy ? Vì con người là một tác phẩm của Thiên Chúa chưa hoàn thành, còn thay đổi mỗi ngày, có thể hôm nay tốt nhưng ngày mai lại xấu và ngược lại. Chỉ có một mình Thầy Giêsu là con người vâng lời tuyệt đối : Ngài đã vâng lời chịu chết, chết trên thánh giá…

 

Dụ ngôn này nếu chỉ giải thích bình thường, thì chẳng có gì gay cấn và sóng gió cả, nhưng Thầy Giêsu lại ám chỉ hai lớp người đối lập nhau trong xã hội Do Thái : Người thu thuế, gái điếm và các Luật sĩ, Biệt phái. Đứa con thứ nhất nói không rồi hối hận sau đó đi làm, đó là những người thu thuế và gái điếm. Họ là lớp người đứng hạng bét trong xã hội, coi như bị mọi người chà đạp dưới chân. Đời sống tội lỗi của họ được lấp đầy ân sủng nhờ biết hối hận và làm lại cuộc đời. Đứa con thứ hai vâng vâng dạ dạ, nhưng không làm, đó là các Thượng tế, Kinh sư và Pharisêu, hàng giáo phẩm cấp cao của đạo Do Thái. Được coi là đạo đức thánh thiện. Thầy Giêsu đã đưa hai lớp người hoàn toàn khác nhau ra so sánh và kết quả : thu thuế và gái điếm thắng giòn giã một không, chỉ vì “ Ông Gioan đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy,  còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông khi đã thấy vậy rồi các ông không chịu HỐI HẬN mà tin ông ấy” (Mt 21,32). Thầy Giêsu khẳng định : “Tôi bảo thật các ông  :  những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Có bản dịch khác, dịch là thay chỗ. Như thế những người thu thuế và các cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa không có chỗ cho Biệt phái. Thật là thê thảm cho những ai chỉ biết đọc kinh ngoài miệng mà không thực thi Thánh Ý Chúa.

 

Những người nước ngoài đến Việt Nam đều tâm đắc khen ngợi : người Công giáo Việt Nam siêng năng đọc kinh, đến nhà thờ chật kín chỗ ngồi, di lễ đông đến nỗi phải đứng  tràn ra ngoài sân. Tích cực đọc kinh, xem lễ, lãnh các bí tích thật là tốt, nhưng chưa đủ, vì đạo không chỉ đóng khung trong nhà thờ mà phải đi ra ngoài xã hội, phải thể hiện niềm tin trong cuộc sống, giữa cuộc đời, sống đạo giữa đời. Đạo không đi vào đời, đạo không có chỗ đứng, hay chỉ đứng bên lề xã hội, trở thành một kỷ niệm đẹp để chiêm ngắm, không mang tính thuyết phục, không có sức mạnh chuyển đổi, cải thiện. Như vậy đạo không còn là men, không còn là ánh sáng…

 

Thầy Giêsu đã nói rõ “ Không phải những ai luôn miệng đọc : Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, mà là những kẻ thi hành  thánh ý Chúa”.

 

Tin Mừng hôm nay còn mặc khải cho tôi một điều thú vị  : Thầy Giêsu với tấm lòng nhân hậu, bao dung tha thứ, nên Ngài đã quên đi tất cả những lầm lỗi của chúng ta. Đứa con thứ nhất đã nói không, thế mà vẫn được ca ngợi, vì Thầy Giêsu khoan dung tha thứ. Tất cả những lỗi lầm, những sai phạm trong quá khứ đều được tha thứ miễn là bây giờ anh biết hối hận và tin vào Ngài. Đã là người ai mà chẳng có lầm lỗi, chỉ hơn nhau ở chỗ biết hối hận, đứng dậy, làm lại những gì đã mất. Thánh vịnh 129  “ Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng”. Đây không phải là lần duy nhất Thầy Giêsu đã khoan dung tha thứ mà nhiều lần Thầy đã quên đi lỗi lầm : Đối với người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang, ngài đã nói : “ Thầy cũng không kết án con, hãy về đi và đừng phạm tội nữa”. Trên thập giá, Ngài nói với  người trộm bên tay phải “ Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với ta” . Lòng khoan dung của Thầy Giêsu đã đem lại cho tôi niềm tin, an tâm đứng dậy sau khi vấp ngã, can đảm làm lại những gì đã mất. Hay quá, Thầy Giêsu thật dễ thương !

Lạy Thầy Giêsu kính mến.

 

Xin ban cho con biết hốu hận rồi hoán cải, đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận  những cắt tỉa đau thương, dám sống Lời Chúa giữa đời thường.

Lm. Giuse Lê Hiển, Cà Mau

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Cảm nghĩ của giới tu sĩ Pháp về ĐGH Bênêđictô XVI

 

 

Paris ngày 11/09/2008

 

Chiều hướng tri thức của cựu hồng y Ratzinger đã luôn được nhìn nhận. Nhưng cá tính của ĐGH Bênêđictô XVI đã được giới tu sĩ Pháp đánh giá cao so với lúc đầu của triều giáo hoàng của ngài.

 

Một vị giám mục Pháp đã tâm sự : « Nếu năm 2005, ĐGH được bầu bởi hàng giáo sĩ Pháp thì ĐHY Ratzinger đã không được nhiều phiếu bầu ». Trong một giáo hội Pháp vẫn còn nét « chống Rôma » theo như cách diễn tả của nhà thần học Urs von Balthasar, thì chủ tịch của Bộ Tín Lý gây nhiều ý kiến quyết liệt. Ngài là điểm tựa của những người ủng hộ « một sự phúc âm hoá mới » như ĐGH Giaon Phaolô II mong muốn, do đó ngài là đối tượng đen của những người cấp tiến.

 

Sau ba năm, hình ảnh của ĐGH Bênêđictô XVI đã thay đổi. Bằng chứng cụ thể là sự huy động náo nhiệt của các giáo xứ Pháp, không chỉ ở vùng Paris hay Lourdes. Một cha xứ vùng Normandie đã nhìn nhận : « Chúng tôi đã thuê một xe hành khách để đến Paris, điều mà chúng tôi chưa hề làm trong những cuộc thăm viếng của ĐGH Gioan Phaolô II ». Cha xứ họ đạo Issy-les-Moulineaux nhìn nhận : « Chúng tôi biết từ lâu rằng ngài là một nhà tri thức lớn. Dần dần chúng tôi khám phá ra một vị chủ chăn thật sự ».

 

Một cách tự nhiên, các tu sĩ Pháp tỏ lòng ngưỡng mộ cái nhìn thần học cao siêu của người kế vị ĐGH Gioan Phaolô II. Nhưng hai thông điệp về lòng bác ái và về niềm hy vọng và tác phầm « Đức Giêsu người Nazareth » đã góp phần lớn vào sự thay đổi hình ảnh về cá tính của ĐGH. ĐGM Dominique Rey của địa phận Fréjus-Toulon tóm lược : « Nhiều linh mục đã sợ sẽ có những lời nhắc nhở trở về với quy luật. Trái lại, họ đã nhận những lời khuyến khích tinh thần ».

 

Mặt khác, nhiều giáo xứ Pháp đã có những nhóm giáo dân tụ họp để học hỏi về cuốn sách của ĐGH. Một cha xứ tại Paris đã thích thú nói rằng « Từ những học hỏi về cuốn sách này, các linh mục đã học hỏi các tác phầm xưa của ĐHY Ratzinger mà họ không muốn mở ra coi cho tới gần đây. Họ nhận ra rằng tư tưởng của ngài trước sau như một, một con người trước sau cũng vậy ! ».

 

Các đại hội giới trẻ thế giới cũng góp phần vào sự phấn khởi này. ĐGM Jean-Yves Riocreux địa phận Pontoise xác nhận : « Tất cả những linh mục mà tôi biết đã dự các đại hội tại Cologne và Sydney đều trở về với lòng phấn khởi vì những bài giáo lý tuyệt vời của ngài ».

 

Trái lại, sự quan tâm của ĐGH về phụng vụ và những cố gắng của ngài đối với những người bảo thủ đã gây tranh luận trong một giáo hội Pháp đã bị đánh dấu một cách trầm trọng bởi sự khủng hoảng của trào lưu cực đoan cũng như những sai lầm hậu công đồng. Một cha xứ ngoại ô than : « Những ý kiến của ĐGH cho thấy một sự thiếu hiểu biết thực trạng Pháp và những điều mà các giáo xứ đang sống ». Một cha phó trong một xứ đạo Paris đáp lại : « Sự thực hành phụng vụ của ngài là điều cứu nguy cho chúng ta, bởi vì nó mang ra ánh sáng tất cả những thói quen xấu mà nếu không để ý sẽ dẫn tới một ý nghĩa trái nghịch về phụng vụ »  

 

 

Nhật báo Le Figaro

 

Công bố Huấn Thị mới của Bộ Giáo Dục Công Giáo

VATICAN. Hôm 25-9-2008, Bộ giáo dục Công Giáo đã công bố huấn thị mới liên quan đến các Học viện cao đẳng về khoa học tôn giáo.

Văn kiện này dài 13 trang, mang chữ ký ngày 28-6-2008 của ĐHY Tổng trưởng Zenon Grocholewski và Đức TGM Jean Louis Brugès, OP, được ĐTC Biển Đức 16 phê chuẩn và cho phép công bố, nhắm xác định lại và cập nhật hai văn kiện do Bộ giáo dục Công Giáo công bố trước đây, đó là Văn kiện giải thích ngày 10-4-1986 và Quy luật các Học Viện Cao đẳng về khoa học tôn giáo công bố ngày 12-5-1987. Sở dĩ Bộ Giáo Dục Công Giáo cập nhật các qui luật này vì có những đòi hỏi mới về mục vụ và vì có những biến chuyển trong luật pháp dân sự tại nhiều nước.

Huấn thị mới xác định các Học viện cao đẳng về khoa học tôn giáo là những trường nhắm huấn luyện các giáo dân và tu sĩ, giúp họ có một tổng hợp đầy đủ về đạo lý của Giáo Hội cũng như những kiến thức cần thiết về triết học, để có thể tham gia tích cực vào các công tác truyền giảng Tin Mừng trên thế giới, cũng như đảm nhận các trách vụ chuyên nghiệp trong đời sống Giáo Hội và linh hoạt xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Các học viện này khác với các phân khoa thần học và những học viện đào tạo linh mục.

Huấn thị mới nhắm đồng nhất hóa các Học viện cao đẳng về khoa học tôn giáo trong Giáo Hội hoàn vũ, đảm bảo trình độ thích hợp về khoa học, trong niềm trung thành với Huấn quyền Hội Thánh, đáp ứng nhu cầu của các Giáo Hội địa phương.

Huấn thị gồm có 3 phần: thứ I là hình thái của các Học viện cao đẳng về tôn giáo; thứ II là thủ tục thành lập một Học viện thuộc loại này, và thứ III là các qui luật chung kết.

Huấn thị mới đã được ĐHY Zenon Grocholewski, người Ba Lan, tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo, giới thiệu trong cuộc họp báo sáng 25-9-2008 tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Cùng hiện diện và lên tiếng trong dịp này còn có Đức TGM Jean Louis Brugès, Dòng Đa Minh người Pháp, tổng thư ký của Bộ, và vị Phó tổng thư ký là Đức Ông Vincenzo Zani.

Đức TGM Brugès nhắc đến một số qui luật nổi bật như: Học viện cao đẳng về các khoa học tôn giáo luôn được liên kết với một phân khoa thần học Công Giáo, chịu trách nhiệm về việc giảng dạy (a.4); Học viện này luôn ở dưới trách nhiệm về phương diện Giáo Hội của 1 GM hoặc một nhóm GM hay HĐGM.. (a.5, và 10). Học viện phải có ít là 4 giáo sư trọn giờ nếu chỉ có cấp 1; trái lại phải có 5 giáo sư trọn giờ nếu có cả cấp hai: gồm Kinh Thánh, Thần học tín lý, thần học luân lý và mục vụ, triết học, các khoa học nhân văn (a.15).

Điều kiện theo học tại Học Viện cũng giống như để gia nhập một phân khoa, nghĩa là có bằng tú tài, giống như khi gia nhập một đại học dân sự (a.18), phải có ít là 75 sinh viên thực thụ.

Học trình tại Học viện gồm hai cấp: cấp 1 gồm 3 năm, kết thúc với bằng cử nhân (baccalauréat) và cấp 2 gồm 2 năm, kết thúc với bằng cao học (Licence). Các bằng này do Phân khoa thần học mà Học viện tháp nhập, cấp phát.

Vị Phó Tổng thư ký Bộ giáo dục Công Giáo cho biết hiện nay tại Italia có 74 Học viện cao đẳng về tôn giáo, tại Tây ban nha có 29; các học viện khác rải rác tại nhiều nước như Brazil, Cile, Croát và nhiều nước Mỹ châu La tinh..

Huấn thị mới sẽ được áp dụng kể từ niên khóa 2009-2010 (SD 25-9-2008)

Mục lục

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 Giám Mục


CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 nhắn nhủ các tân GM hằng ngày suy niệm và sống Lời Chúa đồng thời tiến triển trên con đường nên thánh.


Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 22-9-2008 dành cho 120 GM, thụ phong trong khoảng 12 tháng gần đây, và đang tham dự khóa bồi dưỡng do Bộ Giám Mục và Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương tổ chức ở Roma.


Trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến Năm Thánh Phaolô Tông Đồ và Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 12 về Lời Chúa sắp khai diễn vào tháng 10 tới đây. Ngài khích lệ các GM noi gương thánh Phaolô, vị đại Mục Tử, và nói rằng:


”Trong tư cách là GM, trước tiên chúng ta phải học nơi Thánh Tông Đồ lòng yêu mến nồng nhiệt đối với Chúa Giêsu Kitô. Từ khi thánh nhân gặp Thầy Chí Thánh trên đường đi Damas, cuộc sống của ngài hoàn toàn là một hành trình trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô, trong nội tâm và trong hoạt động tông đồ, giữa những bách hại và đau khổ (cf 2 Tm 3,11). Thánh Phaolô tự định nghĩa mình là một người ”được Chúa Kitô chinh phục” (Fil 3,12) đến độ có thể nói ”Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 1,20); và ngài còn nói: ”Tôi đã được đóng đanh với Chúa Kitô. Đời sống này tôi sống trong thân xác, tôi sống cuộc sống ấy trong niềm tin nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương và đã ban chính mình cho tôi” (Gal 2,20).


ĐTC cũng nhắc nhở rằng trong số các phương thế giúp các GM tiến triển trong đời sống thiêng liêng, trước tiên có Lời Chúa: Lời Chúa phải có một vị trí trung tâm tuyệt đối trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. ”Vì thế, ĐTC nói, tôi khuyên nhủ anh em mỗi ngày hãy tín thác nơi Lời Chúa để trở nên thầy dạy Đức Tin và là những nhà giáo dục chân chính của các tín hữu thuộc quyền; không phải như những kẻ buôn bán Lời Chúa, nhưng như những người nói về Chúa với lòng chân thành và được Chúa thúc đẩy, dưới cái nhìn của Chúa” (cf 2 Cor 2,17)


ĐTC nói thêm rằng; ”Để đương đầu với thách đố lớn lao do trào lưu tục hóa của xã hội hiện đại, hằng ngày GM cần suy niệm Lời Chúa trong kinh nguyện, đến độ trở thành ngừơi loan báo Lời Chúa một cách hiệu quả, là thầy dậy chân chính trong việc trình bày và bảo vệ Lời Chúa, một vị tôn sư sáng suốt và khôn ngoan trong việc truyền giảng Lời Chúa.. Chúng ta phải luôn ý thức rằng Lời Chúa đảm bảo sự hiện diện của Chúa nơi mỗi người chúng ta như chính Chúa đã nói: ”Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến ở trong người ấy” (Gv 14,23).


Sau cùng, ĐTC không quên nhắn nhủ các tân GM quan tâm và gần gũi các linh mục của mình, cũng như linh hoạt và hướng dẫn giới trẻ.

 

Khóa bồi dưỡng của 120 GM tiến hành từ 16 đến 23-9-2008 được tổ chức tại Học viện Giáo Hoàng Nữ Vương các Tông Đồ của dòng Đạo Binh Chúa Kitô.


ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã chủ sự thánh lễ khai mạc lúc 7 giờ rưỡi sáng ngày 16-9-2008. Trong những ngày hội học, các GM đã theo dõi các bài thuyết trình của nhiều nhân vật như Đức TGM Rino Fisichella, Viện trưởng Đại học Giáo Hoàng Latarano, trình bày về đề tài: ”GM, thầy dậy đức tin”. Một số GM khác và chuyên gia lần lượt nói về chức năng thánh hóa và cai quản của GM, tương quan giữa các GM và tu sĩ phục vụ trong giáo phận liên hệ. LM Lombardi S.I, Tổng giám đốc đài Vatican kiêm Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, nói về đề tài ”Giám Mục và các phương tiện truyền thông xã hội”.

Mục lục

Đức Thánh Cha bênh vực hoạt động của Đức Piô XII

CASTEL GANDOLFO. Hôm 18-9-2008, ĐTC Biển Đức 16 ca ngợi tổ chức ”Pave the Way Foundation” (Dọn đường), trong nỗ lực làm sáng tỏ sự giúp đỡ của ĐGH Piô 12 dành cho người Do thái.

Ngài bài tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến dành các tham dự viên Hội nghị của tổ chức Lát đường, nhóm tại Roma từ ngày 15 đến 17-9-2008 nhân dịp kỷ niệm 50 năm Đức Piô 12 qua đời và có chủ đề là: ”Triều đại Giáo Hoàng của Đức Piô 12: một phân tích”. Đây là một tổ chức không phải là Công Giáo nhưng chuyên cổ võ đối thoại giữa các tôn giáo trên thế giới, có trụ sở tại New York Hoa Kỳ và Chủ tịch tổ chức này là Ông Gary Krupp, một người Do thái.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC ghi nhận rằng rất nhiều điều đã viết về ĐGH Piô 12 trong 5 thập niên qua, và không phải tất cả những khía cạnh chân thực trong hoạt động mục vụ của Đức Cố Giáo Hoàng đã được cứu xét dưới ánh sáng đúng đắn. Và mục đích của Hội nghị tại Roma của Tổ chức ”Dọn đường” chính là để sửa chữa những thiếu sót đó, bằng những nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên các văn kiện và chứng từ của những nhân vật nổi bật đáng tin cậy. Hội nghị đặc biệt cứu xét những hoạt động của Đức Piô 12 trong việc bênh vực những người Do thái bị bách hại khắp nơi ở Âu Châu.

ĐTC nhận xét rằng nhờ những nghiên cứu đó, người ta có thể đánh giá cao sự khôn ngoan và hoạt động mục vụ khẩn trương của Đức Cố Giáo Hoàng, đã hướng dẫn người trong những năm dài của sứ vụ, đặc biệt là trợ giúp có tổ chức cho dân tộc Do Thái.

ĐTC nhắc lại sự kiện ngày 29-11-1945, Đức Piô 12 đã gặp 80 đại biểu của những người đã sống sót trong các trại tập trung của Đức quốc xã, trong một buổi tiếp kiến đặc biệt dành cho họ tại Vatican. Họ muốn đến để đích thân cám ơn Đức Cố Giáo Hoàng vì lòng quảng đại đối với họ trong thời kỳ bách hại kinh khủng của chế độ quốc xã - phát xít”.

Sau cùng, ĐTC nói: ”Tôi cám ơn tổ chức ”Dọn đường” vì các hoạt động hiện nay trong việc thăng tiến quan hệ và đối thoại giữa các tôn giáo, như những chứng nhân hòa bình, tình bác ái và hòa giải”.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, Ông Gary Krupp đã mạnh mẽ tố giác những trào lưu bôi nhọ Đức Piô 12 và lên án ngài là đã giữ im lặng không bênh vực người Do thái trong thời thế chiến thứ 2. Những lời vu khống ấy dựa trên các tài liệu tưởng tượng, nhất là từ sau vở kịch của Hochhuth ở Đức với tựa đề ”Vị Đại Diện” hồi năm 1963. Vở kịch này tuy là một sáng tác tưởng tượng, nhưng cũng đã thành công trong việc bôi nhọ khuôn mặt của Đức Piô 12 trong bao năm qua.

Ông Krupp cho biết có một bằng chứng về sự bôi nhọ là một bài do một nhật vật cấp cao mật vụ KGB của Liên Xô, mô tả chiến dịch gọi là ”Seat-12” toan tính ám sát một nhân vật mà họ coi là kẻ thù, đó là ĐGH Piô 12. Theo ông Krupp, toan tính ám sát này chính là một trong những hình thức ”hủy hoại con người” thành công nhất thế kỷ 20, vì nó vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay.

Án phong chân phước cho Đức Piô 12 đã được mở từ lâu, đồng thời với án của Đức Giáo Hoàng Gioan 23. Nhiều tổ chức Do thái chống đối việc phong chân phước này và cho rằng Đức Piô 12 đã im lặng không chịu bênh vực người Do thái trước cuộc bách hại của Đức Quốc Xã.

Mục lục

 

Nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Pio XII trong việc cứu sống người do thái


Phỏng vấn giáo sư Andrea Riccardi về nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Pio XII trong việc cứu sống người Do thái tại Roma thời thế chiến thứ II


Trong các ngày vừa qua giáo sư Andrea Riccardi, sáng lập viên cộng đồng thánh Egidio, đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề ”Mùa đông đài nhất: 1943-1944: Đức Pio XII, người do thái và người đức quốc xã tại Roma”.


Trong sách giáo sư chứng minh cho thấy kiểu Đức Giáo Hoàng Pio XII và Tòa Thánh kháng cự chống lại Đức Quốc Xã trong thời thế chiến thứ II.


Đó đã không phải là một cuộc chiến đấu vũ trang, cũng không phải là một trận chiến du kích nhằm phá hoại hay tuyên bố lén lút, mà là một mạng lưới thầm lặng của các hoạt động trợ giúp và cứu sống những người tị nạn và những người bị Đức Quốc Xã truy lùng. Sự kháng cự của Đức Giáo Hoàng Pio XII và của Tòa Thánh đã bao gồm một loạt các thương lượng ngoại giao với người Đức chiếm đóng Italia và Roma, và hàng loạt các sáng kiến để trợ giúp mọi người ”kháng cự” bạo lực, ở đây đặc biệt là nỗ lực cứu sống các anh chị em do thái khỏi cuộc diệt chủng do Đức Quốc Xã phát động. Trong 9 tháng trời Roma bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, Giáo Hội Công Giáo đã không im lặng thụ động chứng kiến, như có người vẫn cố tình vu khống.


Chất liệu của cuốn sách nói trên đã được giáo sư Riccardi bắt đầu thu thập từ thập niên 1970 qua các cuộc phỏng vấn các anh chị em do thái còn sống sót nhờ sự can thiệp của Đức Giáo Hoàng Pio XII và Tòa Thánh.


Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn giáo sư Andrea Riccardi, sáng lập viên cộng đoàn thánh Egidio, về nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Pio XII trong việc cứu sống người Do thái tại Roma thời thế chiến thứ II.


Hỏi: Thưa giáo sư Riccardi, có thể nói tới ”sự kháng cự” của Đức Giáo Hoàng Pio XII đối với chế độ đức quốc xã hay không?

Đáp: Không. Trước hết vì Giáo Hội không muốn ”kháng cự” mà muốn cứu mạng sống con người. Ngoài ra cần phải tránh việc chú ý thái qúa tới con người của Đức Giáo Hoàng. Sau ngày mùng 8 tháng 9 năm 1943 tại Roma các nam nữ tu sĩ, các linh mục đã tự động rộng mở các giáo xứ và dòng tu để trợ giúp các anh chị em do thái đang trốn tránh Đức quốc xã. Và phong trào cứu sống các anh chị em do thái này đã không chỉ được Tòa Thánh, tức là Đức Giáo Hoàng Pio XII và Đức Ông Montini, Phụ tá Quốc Vụ Khanh, cho phép, mà nhiều lần đã được chính Đức Giáo Hoàng Pio XII và Đức Ông Montini yêu cầu cứu sống các anh chị em do thái. Như thế nếu có nói tới sự kháng cự, thì đó là một kiểu kháng cự thụ động, không trực tiếp và công khai đương đầu với bạo lực.


Hỏi: Giáo sư có thể đưa ra vài con số liên quan tới việc cứu sống các anh chị em do thái tại Roma hay không?

Đáp: Hồi đó người ta thường nói rằng ”nửa thành phố Roma này che dấu cho nửa thành phố Roma kia”. Lý do là vì Tòa Thánh Vaticăng ở bên này sông Tevere, còn hội đường Do thái ở phía bên kia sông. Đã có hơn 4000 anh chị em do thái được tá túc trong các cơ sở của Giáo Hội, nhưng tổng cộng là 10.000 người, nếu kể cả những người lẩn trốn trong các tư gia, trong các tu viện, trong các nhà thương. Chẳng hạn như đại học Laterano đã trở thành một pháo đài của những người lẩn trốn, vì đã tiếp đón 1000 người do thái. Đó đã là một cuộc sống hầm trú, cận kề với thế giới của Giáo Hội.


Hỏi: Trong sách giáo sư đã công bố thông cáo viết bằng hai thứ tiếng Ý và Đức, mà ngày 25 tháng 10 năm 1943 Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã cho dán trên các nhà thờ và các nơi thờ tự trong thành phố Roma. Thông cáo viết rằng: ”Nơi thờ tự này trực thuộc Quốc Gia Thành Phố Vaticăng. Cấm bất cứ cuộc lục soát và khám xét nào”. Có đúng thế không?


Đáp: Vâng, đúng thế. Đàng sau bảng thông cáo đó đã có các tiếp xúc giữa Tòa Thánh Vaticăng và Đức Quốc Xã, đã có các trung gian tế nhị, và cả các cám dỗ rũ rê nữa. Đã có một nỗ lực ngoại giao lớn được huy động, và trong một ít lúc nào đó đã bị lung lay, đôi khi do sự nồng nhiệt qúa đáng của quân phát xít. Chẳng hạn như trường hợp của Nhóm Koch đã vào được đan viện Thánh Phaolô, nhờ sự đồng lõa của một đan sĩ. Đây là trường hợp cộng tác duy nhất mà tôi đã tìm ra, khi người cộng sản và người do thái bị khám phá ra tại Laterano.


Hỏi: Như vậy nói rằng Đức Giáo Hoàng Pio XII thinh lặng không can thiệp để cứu sống người Do thái hồi thế chiến thứ hai là không đúng sự thật, có phải vậy không, thưa giáo sư?


Đáp: Đức Pio XII chắc chắn đã chọn kiểu phản ứng không phải bằng việc lên tiếng phản đối hay kêu la, điều này đã là một sự kiện. Tuy nhiên ngài đã xây dựng bên trong Giáo Hội Roma cả một khoảng không gian rất lớn nhằm cứu sống người do thái, bằng cách mở rộng nó ra trong các vùng đất thuộc Giáo Hội và trong tất cả mọi tu viện. Đàng khác chúng ta phải vượt qua lời tố cáo thường tình về ”các thinh lặng” của Đức Pio XII, vì lịch sử không phải là một tòa án: nhiệm vụ của nó là tìm hiểu các sự kiện. Sự tìm hiểu của tôi không có mục đích lên án, cũng không nhằm mục đích ca tụng Giáo Hội, nhưng là thử tìm hiểu một vụ việc đòi buộc phải vượt qua các rào cản của các nhận định hay ý kiến theo các công thức thuộc lòng có sẵn lập đi lập lại. Kể cả ý kiến cho rằng hàng lãnh đạo cấp cao của Tòa Thánh và Giáo Hội rất thận trong hay sợ hãi, nên thinh lặng không lên tiếng để cho tình hình đừng tồi tệ thêm, hay ý kiến cho rằng các thành phần tín hữu khác bên dưới hoàn toàn quảng đại.


Hỏi: Nghĩa là sự thật đã không phải như thế?

Đáp: Giữa nhiều chuyện khác, tôi dựng lại cuộc thảo luận đã xảy ra trong Vaticăng giữa những vị đồng ý cho các anh chị em do thái tá túc trong các cơ sở của Giáo Hội, như Đức Hồng Y Canali, và những vị chống lại lập trường này như Cha Ronca, viện trưởng đại học Laterano. Hồi đó cả trong Tòa Thánh nữa người ta cũng đã không có được một toàn cảnh rõ ràng về các biến cố xảy ra trên thế giới. Trong Tòa Thánh cũng có các gián điệp, và người ta đã hành động dưới ảnh hưởng của nỗi lo sợ thường xuyên là Đức Giáo Hoàng Pio XII có thể bị Đức Quốc Xã bắt đem sang Đức.


Hỏi: Thế Tòa Thánh cũng đã không biết gì về vụ càn quét khu ghetto của người do thái ngày 16 tháng 10 năm 1943, ”ngày kinh hoàng” đó hay sao, thưa giáo sư?


Đáp: Tôi có cảm tưởng là cả Tòa Thánh Vaticăng cũng đã không biết tới vụ lùng bắt này. Liên quan tới phản ứng thì Tòa Thánh theo đường lối ngoại giao của đại sứ Đức, là kênh thông tin duy nhất và hàm hồ không rõ ràng, có được thời đó. Có người cho rằng Tòa Thánh đã thành công trong việc can thiệp cho một vài người trên tổng số 1000 người do thái bị bắt được tự do. Nhưng tin này không được xác định. Cả ở đây nữa, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã lựa chọn không lớn tiếng kêu ca. Đây đã không phải là lập trường vô lý, vì trong các người do thái cũng có người nuôi ảo tưởng rằng quân đức quốc xã sẽ bằng lòng với ít vàng cống hiến cho họ, và rất ít người Do thái có được trực giác là sẽ xảy ra nguy cơ điệt chủng.

Hỏi: Nhưng dầu sao đi nữa sự kiện một Giáo Hội không phò người Do thái, mà lại quảng đại như thế có là điều gây ngạc nhiên hay không thưa giáo sư?


Đáp: Có người đã cho đó là giai đoạn chuẫn bị cho cuộc đối thoại do thái Kitô. Nhưng đã không phải như vậy. Tuy nhiên mọi người đều đã hiểu rằng họ đang sống một thảm cảnh lớn đòi hỏi phải có các nhân đức đặc biệt, và người ta ghi nhận một phản ứng tập thể của thế giới kitô dựa trên các tình cảm nhân đạo. Chẳng hạn tôi đã điều tra về hiện tượng hoán cải: các vụ theo đạo đó có được dẫn dắt hay không? Tình hình thay đổi tùy trường hợp: có những môi trường rất là tôn trọng đối với tới hữu do thái: trong một vài tu viện người ta cho các anh chị em do thái một phòng riêng để cầu nguyện.


Trái lại người ta cũng ghi nhận có vài trường hợp khác rõ ràng có sự thúc đẩy tín hữu do thái theo Kitô giáo. Liên quan tới sự kiện các anh chị em do thái được cứu giúp có trả tiền hay không? Có người nói họ trả các món tiền lớn, nhưng đó là các trường hợp rất họa hiếm. Nói chung thì họ đóng góp những gì có thể, còn bình thường là không có gì cả. Cả trong điểm này nữa cũng cần phải loại bỏ các đơn giản hóa sự kiên đi.


Hỏi: Nhưng mà trong sách giáo sư có kể lại một lần Đức Pio XII đã lên tiếng, có đúng thế không, thưa giáo sư?


Đáp: Đúng thế. Ngày 12 tháng 3 năm 1944, khi Đức Pio XII triệu tập dân chúng Roma tới quảng trường thánh Phêrô để bầy tỏ sự tham gia của ngài vào các thảm cảnh của thành phố. Đó đã là vụ biểu lộ tự do duy nhất của toàn Âu châu bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Và trong số những người lắng nghe Đức Pio XII nói có cả ông Nenni, thuộc đảng cộng sản, lúc đó đang lẩn trốn trong đại chủng viện Roma.


Hỏi: Chỉ vài ngày sau đó là xảy ra vụ tàn sát người dân Roma tại hố Ardeatine. Đức Pio XII đã phản ứng như thế nào thưa giáo sư?


Đáp: Tòa Thánh Vaticăng đã rất là giận dữ trước vụ tàn sát này. Báo Quan Sát Viên Roma định nghĩa hành động của các du kích quân cộng sản mưu sát binh sĩ Đức là ”vô trách nhiệm”. Nó đã là một sai lầm chỉ khiến cho người Đức trở thành cứng rắn hơn mà thôi, trong khi Tòa Thánh Vaticăng tìm cách tránh cho thành phố Roma khỏi trở thành bãi chiến trường và điều khiển được việc chuyển quyền không đau đớn từ binh sĩ Đức sang cho lực lượng Đồng Minh.

Mục lục

 

Đại công chúa hoàng gia Tây Ban Nha yết kiên ĐTC Benedictô XVI

 

VATICAN (ZENIT) - Hôm 19/09/2008, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã tiếp kiến Đại công chúa Tây Ban Nha Cristina de Borbón cùng chồng bà là Công tước Iñaki Urdangarín. Đại công chúa Cristina là con gái thứ hai của Vua Juan Carlos và Nữ hoàng Sofia.


Thông tin về cuộc gặp gỡ này được Văn phòng Báo chí Tòa Thánh loan báo, tuy nhiên không thông tin chi tiết nào khác được đưa ra.


Đức Thánh Cha đã tiếp kiến vợ chồng Công chúa tại dinh thự mùa hè Castel Gandolfo, cách Rome 30 kilômét (18 dặm) về phía Nam.


Tòa đại sứ Tây Ban Nha cạnh Tòa Thánh cũng đã xác nhận cuộc gặp gỡ và mô tả nó diễn ra trong "bầu khí riêng tư". Công tước xứ Palma cùng đại sứ Tây Ban Nha, ông Francisco Vázquez đã có mặt trong buổi tiếp kiến.

Ấn Độ: Kitô hữu phản đối vụ đốt phá nhà thờ chính toà ở miền trung Ấn

JABALPUR, Ấn Độ (UCAN) -- Các Kitô hữu ở miền trung Ấn vừa xuống đường phản đối sau khi một số người cố tình phóng hoả đốt nhà thờ chính toà của họ.

Hai người lạ mặt đã vào nhà thờ chính toà hai Thánh Phêrô và Phaolô 120 năm tuổi ở thị xã Jabalpur thuộc bang Madhya Pradesh, phóng hoả đốt bàn thờ nhà thờ tối ngày 18-9, linh mục Joseph Christuraj cho UCA News biết.

Vị linh mục, người phát ngôn cho giáo phận Jabalpur, nói ngọn lửa đã được dập tắt trước khi lan sang các nơi khác.

Vài tiếng đồng hồ sau đó, các Kitô hữu đã xuống đường phản đối trong hoà bình làm tắc nghẽn giao thông trên một con đường chính trong thị xã, cách New Delhi 815 km về phía nam. Các trường học Kitô giáo ở đó đóng cửa hôm 19-9.

Cha Christuraj trích lời một nhân chứng kể thấy hai thanh niên chạy ra khỏi nhà thờ chính toà bằng xe môtô khi khói từ trong nhà thờ cuồn cuộn bốc ra. Vị linh mục nói những kẻ phóng hoả này đập vỡ kính cửa sổ và leo vào nhà thờ chính toà. Ngọn lửa làm cháy khăn bàn thờ, sách Thánh, Thánh giá và tượng hai Thánh Phêrô và Phaolô.

Hôm 19-9, Đức Giám mục Gerald Almeida của Jabalpur đã dẫn đầu một phái đoàn đến gặp thủ hiến bang Shivraj Singh Chauhan. Phái đoàn yêu cầu thủ hiến bang lên án vụ tấn công nhà thờ chính toà và bảo vệ các Kitô hữu.

Phái đoàn còn đệ trình danh sách gồm 56 vụ tấn công các Kitô hữu ở Jabalpur trong hai năm qua và yêu cầu chính quyền điều tra các vụ này.

Phát biểu với các phương tiện truyền thông ở Jabalpur sau đó, thủ hiến bang lên án vụ tấn công nhà thờ chính toà và nói ông thấy xấu hổ về chuyện này.

Đức cha Almeida nói với UCA News rằng vụ việc này thực sự là “hành động đáng hổ thẹn”, vì Giáo hội “chưa hề làm hại ai”. Ngài nói thêm: “Hành động bẩn thỉu mạo phạm nơi thờ tự là việc làm xấu hổ đối với toàn thành phố và loài người”.

Vị giám chức nói Giáo hội muốn chính quyền bang bắt giam thủ phạm, nhưng ngài thừa nhận ngài nghi ngờ chính quyền sẽ không làm vì chưa có người nào bị trừng phạt trong các vụ tấn công Kitô hữu trong hai năm qua.

Mặc dù Hiến pháp Ấn Độ đảm bảo công dân có quyền thực hành và truyền bá tín ngưỡng của họ, nhưng các cơ quan hành pháp trong bang không bảo đảm các quyền này cho Kitô hữu, Đức cha Almeida lấy làm tiếc.

Nhiều đàn ông và phụ nữ tập trung tại nhà thờ chính toà sau khi nghe tin vụ đốt phá này. Họ lên án vụ tấn công và yêu cầu chính quyền bắt giam những kẻ chịu trách nhiệm.

Michael John, một người Công giáo đã đi 10 km để đến nhà thờ chính toà khi nghe tin, nói với UCA News rằng “thật hết sức buồn” khi thấy bàn thờ bị đốt cháy. Đồng thời, anh hy vọng người Công giáo sẽ giữ bình tĩnh và không nên viện cớ này để gây bạo lực.

Jyoti Lazarus, tổng thư ký cánh phụ nữ của Madhya Pradesh Isai Mahasang (đại diễn đàn Kitô giáo), cảnh báo các Kitô hữu trong bang đang “mất dần kiên nhẫn”.

Sĩ quan cảnh sát Makrant Deouska nói với UCA News hôm 18-9 rằng cảnh sát đã ghi nhận vụ lên án “những kẻ chưa được xác định rõ danh tánh và đang điều tra vụ này”. Chính quyền bang đã triển khai cảnh sát đến hầu hết các nhà thờ nằm trong các khu vực “nhạy cảm”.

Nhà thờ chính toà Jabalpur được nâng cấp năm 2001, sau khi bị hư hại do một trận động đất năm 1997 gây ra.

Các lãnh đạo Giáo hội phàn nàn rằng Kitô hữu và các cơ sở Kitô giáo ở Madhya Pradesh đã trở thành mục tiêu từ khi Đảng Bharatiya Janata (BJP, Đảng nhân dân Ấn Độ) ủng hộ Ấn giáo lên nắm quyền trong bang tháng 12-2003. BJP, một quốc đảng, được coi là ô dù của các nhóm muốn biến Ấn Độ thành một nước Ấn giáo theo chế độ thần quyền.

Trong số 60 triệu dân của Madhya Pradesh, 91% là người Ấn giáo. Người Công giáo và các Kitô hữu khác cả thảy chiếm chưa tới 1% dân, nhưng các cơ sở giáo dục và y tế của Công giáo được đánh giá cao. Tuy nhiên, từ khi BJP lên nắm quyền trong bang các nhóm cực đoan Ấn giáo xem các cơ sở này như là vẻ bề ngoài dùng lôi kéo người nghèo theo Kitô giáo.

Ucan

Mục lục

 

Vatican gửi thông điệp đến người Hồi giáo và kêu gọi bảo vệ phẩm giá gia đình

VATICAN (CNA) - Người Hồi giáo trên khắp thế giới sắp kết thúc tháng chay Ramadan, tháng của chay tịnh, bác ái và thờ phượng cao độ. Như thông lệ hằng năm, Hội Đồng Tòa Thánh về Đối thoại Liên tôn đã gửi đi một thông điệp thúc giục các tín đồ Hồi giáo cùng hợp tác với các Kitô hữu trong việc bảo vệ các gia đình.

Tiêu đề của bức thông điệp là: "Người Kitô giáo và Hồi giáo: Cùng nhau bảo vệ phẩm giá của gia đình." Thông điệp được gửi đến toàn thể các tín đồ Hồi giáo ký bởi Đức Hồng y chủ tịch Jean-Louis Tauran và Đức Tổng Giám Mục Pier Luigi Celata, thư ký Hội đồng.

Thông điệp bắt đầu bằng đoạn viết: "Cảm tạ Thiên Chúa vì trong suốt tháng qua, người Kitô hữu gần gũi các bạn để sẻ chia cùng các bạn những suy ngẫm và những nghi lễ gia đình; để đối thoại và tình bạn được tăng cường."

"Cuộc gặp gỡ thân tình này đưa chúng ta đến cơ hội cùng suy ngẫm về các giá trị tương trợ lẫn nhau, những giá trị ấy sẽ giúp tăng cường các giao đổi giữa chúng ta và giúp chúng ta hiểu biết nhau hơn, trong những giá trị chung mà chúng ta cùng chia sẻ cũng như những khác biệt còn tồn đọng trong chúng ta: đó là chủ đề về gia đình."

Thông điệp đã viện dẫn Hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes) của Công Đồng Vatican II để khẳng định rằng một xã hội tốt đẹp phụ thuộc vào những "giá trị lành mạnh" về hôn nhân và gia đình.

Hội Đồng Tòa Thánh về Đối thoại Liên tôn tiếp tục kêu gọi: "Có biết bao nhiêu người hiện đang cưu mang trong mình, thậm chí là suốt cả cuộc đời, những gánh nặng của tổn thương và hoàn cảnh gia đình khó khăn? Có biết bao nhiêu đàn ông, phụ nữ đang đắm chìm trong ma túy, bạo lực nhưng vẫn muốn tìm kiếm lại những mơ ước tuổi thơ?"

Thông điệp viết tiếp: không thể phụ nhận rằng "người Kitô giáo và Hồi giáo có thể và phải cùng nhau hợp tác để bảo vệ những giá trị cao quý của gia đình cho hôm nay và tương lai mai sau."

"Người Hồi giáo và Kitô giáo không chỉ không được chần chừ do dự đến ngay với các gia đình khó khăn cần trợ giúp mà còn phải cùng hợp tác với tất cả những ai ủng hộ giá trị gia đình bền vững như một mối quan tâm và trách nhiệm của bậc làm cha mẹ, đặc biệt là trong lãnh vực giáo dục. Tôi cũng cần lưu ý với các bạn rằng gia đình là trường dạy đầu tiên về sự biết kính trọng kẻ khác, quan tâm đến những điểm tương đồng và dị biệt nơi người khác. Đạt được điều ấy, lợi ích sẽ đến với công cuộc đối thoại liên tôn và trách nhiệm của mỗi công dân."

Đoạn cuối thông điệp, ĐHY Tauran và Đức TGM Celata viết: tháng chay Ramadan sẽ kết thúc vào tuần trăng mới, và khi biến cố ấy đến thì: "Hỡi các bạn thân mến, giờ đây khi tháng chay tịnh đã sắp hết, tôi hy vọng rằng các bạn cùng gia đình và những người thân của các bạn gột sạch, tái sinh lại những thực hành tôn giáo của các bạn, điều ấy sẽ mang lại sự thanh bình và phong phú thêm trong cuộc sống các bạn ! Xin Thiên Chúa Toàn Năng tuôn đổ Hồng ân và Bình an xuống trên các bạn !"

Mục lục

 

Bài Giảng ĐTC Benedictô XVI trong Thánh Lễ Mẹ Đau Thương Thứ Hai 15/9/2008 cho Thành Phần Bệnh Nhân trước tiền đường của Đền Thờ Đức Mẹ Mân Côi Lộ Đức

 

 

Lời người dịch : Có thể nói đây là những ý tưởng chính yếu cho cả chuyến tông du của ĐTC đến Pháp quốc và Lộ Đức lần này, vì những lời giảng giải rất sâu xa mới lạ của ngài liên quan đến mầu nhiệm Lộ Đức và thành phần bệnh nhân, nên có thể vì thế ngài đã chọn dịp Lễ Mẹ Đau Thương Thứ Hai 15/9 - chứ không phải ngày 11/2 kỷ niệm Mẹ bắt đầu hiện ra ở Lộ Đức, hay ngày 25/3 kỷ niệm ngày Mẹ xưng mình 'hoài thai vô nhiễm', hoặc 8/12 là ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm - để đến viếng thăm Linh Địa này và kết thúc chuyến tông du của ngài ở đây

 

 Quí Huynh thân mến trong hàng giáo phẩm và linh mục,

Quí Bạn bệnh nhân, chăm sóc viên và hỗ trợ viên thân mến,

Anh Chị em thân mến!

 

Hôm qua, chúng ta đã cử hành Thánh Giá Chúa Kitô, dụng cụ cho ơn cứu độ của chúng ta, một dụng cụ cho thấy tình thương của Thiên Chúa chúng ta ở tất cả mức độ tràn đầy nhất. Thập Giá thực sự là nơi bộc lộ tuyệt hảo của lòng thương xót Chúa đối với thế giới của chúng ta. Hôm nay, khi chúng ta cử hành lễ nhớ Đức Mẹ Sầu Bi, chúng ta chiêm ngưỡng việc Mẹ Maria thông phần vào lòng cảm thương của Con Mẹ với thành phần tội nhân. Như Thánh Bênađô đã tuyên xưng, Người Mẹ của Chúa Kitô ấy đã tiến vào Cuộc Khổ Nạn của Con Mẹ bằng lòng cảm thương của Mẹ (cf. Homily for Sunday in the Octave of the Assumption). Ở dưới chân Thánh Giá, lời tiên tri của ông Simêon đã được nên trọn: tâm hồn bà sẽ bị đâm thâu (cf Lk 2:35) bởi cực hình giáng xuống trên Đấng Vô Tội được sinh ra từ xác thịt của Mẹ. Như Chúa Giêsu đã kêu lên (cf. Jn 11:35), Mẹ Maria chắc chắn cũng đã kêu lên trước thân mình bị hành hạ của Con Mẹ. Tuy nhiên, việc Mẹ cầm mình đã không cho chúng ta thấy được tình trạng sầu thương thăm thẳm của lòng Mẹ; tất cả những gì đớn đau Mẹ chịu chỉ được cho thấy bởi biểu hiệu truyền thống với 7 thanh gươm mà thôi. Như nơi trường hợp của Chúa Giêsu Con Mẹ, người ta có thể nói rằng cả Mẹ nữa cũng được nên trọn hảo nhờ cuộc khổ đau này (cf. Heb 2:10), nhờ đó, làm cho Mẹ có khả năng lãnh nhận một sứ vụ thiêng liêng mới do Con Mẹ ủy thác chon gay trước khi Người ‘trút hơi thở của mình’ (x Jn 19:30), đó là sứ vụ trở nên Mẹ của Chúa Kitô nơi các phần thể của Người. Vào giờ phút ấy, qua hình ảnh của người môn đệ dấu yếu, Chúa Giêsu đã trao tặng cho mỗi một người môn đệ của mình Người Mẹ của Người khi nói cùng Mẹ rằng: Đó là Con của Mẹ (cf. Jn 19:26-27).

 

Ngày nay, Mẹ Maria đang ở trong cõi hoan lạc và vinh quang của Cuộc Phục Sinh. Những giọt nước mắt đổ ra dưới chân Thánh Giá đã được biến thành một nụ cười không gì có thể xòa mờ, ngay cả lòng cảm thương từ mẫu của Mẹ đối với chúng ta cũng vẫn không hề đổi thay. Việc can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria để ra tay cứu giúp suốt giòng lịch sử chứng tỏ cho thấy điều này, và không ngừng kêu gọi, nơi thành phần dân Chúa, một lòng tin tưởng không lay chuyển nơi Mẹ: lời nguyện Memorare đã cho thấy rất rõ cảm thức này. Mẹ Maria yêu thương từng người con cái Mẹ, chú ý đặc biệt đến những ai, như Con Mẹ ở vào giây phút khổ nạn của Người, bị khổ đau hành hạ; Mẹ yêu thương họ chỉ vì họ là con cái của Mẹ theo ý muốn của Chúa Kitô trên Thánh Giá.

 

Thánh vịnh gia, khi thấy từ xa mối liên hệ từ mẫu này, một mối liên kết Người Mẹ của Chúa Kitô với thành phần dân đức tin, đã nói tiên tri liên quan tới Đức Trinh Nữ Maria rằng ‘thành phần giầu sang nhất trong dân … sẽ tìm kiếm nụ cười của Mẹ’ (44 [45]:13). Như thế, được tác động bởi lời Thánh Kinh linh ứng này, Kitô hữu bao giờ cũng tìm kiếm nụ cười này của Đức Mẹ, một nụ cười đã được các nghệ sĩ thời trung cổ cho thấy một cách tài tình và duyên dáng. Nụ cười này của Mẹ Maria là những gì giành cho tất cả mọi người; thế nhưng nó đặc biệt hoàn toàn giành cho những ai đau khổ, nhờ đó họ có thể tìm thấy niềm ủi an và khuây khỏa trong ấy. Việc tìm kiếm nụ cười của Mẹ Maria không phải là một tác động có tính cách hâm mộ hay lỗi thời, mà là bầy tỏ thích hợp của mối liên hệ sống động và sâu xa liên kết chúng ta với Mẹ là Vị được Chúa Kitô trao ban cho chúng ta như là Người Mẹ của chúng ta.

 

Việc muốn chiêm ngưỡng nụ cười này của Vị Trinh Nữ ấy, không có nghĩa là để cho mình bị thu hút bởi óc tưởng tượng quá trớn. Chính Thánh Kinh đã tỏ nó cho chúng ta thấy qua môi miệng của Mẹ Maria khi Mẹ xướng lên ca vịnh Ngợi Khen: ‘Linh hồn tôi tôn vinh Chúa, thần trí tôi hớn hở trong Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ tôi’ (Lk 1:46-47). Khi Vị Trinh Nữ này dâng lời tạ ơn Chúa Mẹ kêu gọi chúng ta chứng dự. Mẹ Maria chia sẻ với chúng ta là thành phần con cái sau ấy của Mẹ, một cách ngưỡng vọng, niềm vui ở trong lòng của Mẹ, nhờ đó nó có thể trở thành của chúng ta. Lúc nào chúng ta dọc ca vịnh Ngợi Khen này là chúng ta trở thành những người chứng dự vào nụ cười của Mẹ. Ở Lộ Đức đây, trong lần hiện ra vào ngày Thứ Tư 3/3/1858, Bernadette đã chiêm ngưỡng thấy nụ cười này của Mẹ Maria một cách hết sức đặc biệt. Đó là đáp ứng đầu tiên mà Người Nữ Tuyệt Đẹp ấy đã cống hiến cho con người trẻ thụ khải này đang muốn biết Mẹ là ai. Trước khi giới thiệu mình là Đấng ‘Hoài Thai Vô Nhiễm’ vào những ngày sau đó, Mẹ Maria trước hết đã dạy cho Bernadette biết về nụ cười của Mẹ, một dấu chỉ thích đáng nhất cho việc tiến vào sự mạc khải về mầu nhiệm của Mẹ.

 

 Trong nụ cười của một tạo vật siêu việt nhất trong tất cả mọi tạo vật khi nhìn xuống chúng ta ấy là những gì phản ảnh phẩm vị của chúng ta là thành phần con cái của Thiên Chúa, một phẩm vị không bao giờ loại trừ thành phần bệnh nhân. Nụ cười này, một phản ảnh chân thực cho lòng từ ái của Thiên Chúa, là mạch nguồn của một niềm hy vọng mạnh mẽ. Tiếc thay, chúng ta quá rõ là việc chịu đựng khổ đau có thể làm đảo lộn tình trạng quân bình bền vững nhất của đời sống; nó có thể làm rung chuyển cả những nền tảng mãnh liệt nhất của niềm tin tưởng, thậm chí đôi khi có thể đẩy con người đến chỗ tuyệt vọng về ý nghĩa và giá trị của cuộc đời. Có những cuộc đối chọi chúng ta không thể nào một mình tồn tại nếu không có ơn trợ giúp thần linh. Khi không còn biết diễn tả ra sao bằng ngôn từ thì con người cần đến một sự hiện diện yêu thương nào đó, ở chỗ, bấy giờ chúng ta chẳng những tìm kiếm sự gần gũi của những ai có cùng máu huyết hay có liên hệ về thân hữu với chúng ta, mà còn tìm kiếm sự gần gũi của những ai liên hệ sâu xa với chúng ta trong đức tin nữa. Còn ai thân thiết với chúng ta bằng Chúa Kitô và Mẹ của Người, Đấng Vô Nhiễm Tội chứ? Hơn bất cứ một ai khác, các Ngài có khả năng hiểu được chúng ta và thấu biết tình trạng chúng ta khốn khó là chừng nào trong việc chiến đấu với sự dữ và khổ đau. Bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái nói về Chúa Kitô rằng Người ‘không phải là không thể cảm thông với những nỗi yếu hèn của chúng ta; vì Người đã bị thử thách đủ thứ như chúng ta’ (4:15). Tôi thành khẩn nói cùng những ai đang đau khổ và những ai đang đối chọi với khuynh hướng chán chường trong cuộc sống là hãy quay về với Mẹ Maria! Nơi nụ cười của Vị Trinh Nữ này chất chứa một cách kỳ diệu sức mạnh để chiến đấu với bệnh tật và chiến đấu cho cuộc sống. Cũng thế, nơi Mẹ, chúng ta tìm thấy ân sủng để can đảm hay vui lòng chấp nhận ra khỏi đời này vào thời giờ Chúa muốn.

 

Thật là chí lý biết bao cái minh thức của vị đại tác giả về tu đức người Pháp là Dom Jean-Baptiste Chautard, vị trong cuốn Hồn Tông Đồ đã đề nghị với người Kitô hữu đạo hạnh hãy năng nhìn ‘vào ánh mắt của Trinh Nữ Maria’! Phải, việc tìm kiếm nụ cười của Trinh Nữ Maria không phải là một thứ đạo hạnh kiểu con nít, mà là một cảm hứng, như Thánh Vịnh 44 [45] nói, của những ai là ‘thành phần giầu sang nhất trong dân’ (câu 13). ‘Thành phần giầu sang’ ở đây nói về cấp trật đức tin, những ai đạt tới mức độ cao nhất về sự trưởng thành thiêng liêng và biết thực sự biết được tình trạng hèn yếu của mình cùng với thân phận bần cùng của mình trước nhan Thiên Chúa. Nơi cái bộc lộ rất đơn sơ của sự dịu dàng êm ái được chúng ta gọi là một nụ cười, chúng ta thấu hiểu được cái giầu sang duy nhất của chúng ta chính là tình yêu Thiên Chúa ấp ủ chúng ta, một tình yêu thương truyền đến chúng ta qua trái tim của Đấng đã trở nên Mẹ của chúng ta. Việc tìm kiếm nụ cười này trước hết là việc thấu hiểu được tính chất nhưng không của tình yêu thương; việc tìm kiếm này cũng là để có thể làm nở ra nụ cười này qua những nỗ lực của chúng ta sống theo lời lẽ của Người Con Yêu Dấu Mẹ, như một con trẻ làm cho mẹ mình mỉm cười khi làm những gì hài lòng bà vậy. Và chúng ta biết những gì làm cho Mẹ Maria hài lòng, qua những lời Mẹ đã nói với thành phần phục vụ ở Cana: ‘Hãy làm những gì Người bảo’ (Jn 2:5).

 

Nụ cười của Mẹ Maria là suối nước sự sống. ‘Chúa Giêsu phán: ‘ai tin Tôi thì từ lòng họ sẽ vọt lên những giòng sông chảy nước sự sống’ (Jn 7:38). Mẹ Maria là người đã tin tưởng, và từ cung lòng của Mẹ, những giòng sống chảy nước sự sống đã chảy ra tưới dội lịch sử loài người. Giòng suối mà Mẹ Maria chỉ cho Bernadette ở Lộ Đức đây là một dấu hiệu đơn sơ về thực tại thiêng liêng này. Từ trái tim tin tưởng của Mẹ, từ tấm lòng từ mẫu của Mẹ, chảy ra nước sự sống để thanh tẩy và chữa lành. Bằng việc dìm mình vào những bể tắm ở Lộ Đức, rất nhiều người đã khám phá ra và đã cảm nghiệm được tình yêu thương từ mẫu dịu dàng êm ái của Vị Trinh Nữ Maria này, bằng việc tỏ ra gắn bó với Mẹ để liên kết mình chặt chẽ hơn với Chúa! Trong bài tiếp liên của phụng vụ cho Lễ Mẹ Sầu Bi, Mẹ Maria được tôn kính với tước hiệu là Fons amoris, ‘mạch nguồn yêu thương’. Từ trái tim của Mẹ Maria vọt lên một tình yêu thương nhưng không kêu gọi việc đáp ứng của tình yêu thương con cái, một tình yêu thương con cái được kêu gọi tinh luyện cao cả hơn bao giờ hết. Như hết mọi người mẹ, và hơn hết mọi người mẹ, Mẹ Maria là thày dạy yêu thương. Đó là lý do tại sao có rất nhiều bệnh nhân đến Lộ Đức đây để được giãn cơn khát của mình nơi ‘nguồn mạch yêu thương’ này, và để cho mình được Mẹ dẫn đến với nguồn cứu độ duy nhất là Chúa Giêsu Cứu Thế Con Mẹ.

 

Chúa Kitô ban ơn cứu độ của Người bằng những bí tích, nhất là nơi trường hợp của những ai khổ đau bởi bệnh nạn hay tật nguyền, bằng tích sủng của phép xức dầu thánh. Đối với từng người thì khổ đau bao giờ cũng là những gì xa lạ. Nó không bao giờ có thể thuần thục. Đó là lý do tại sao khó có thể chịu đựng, và lại càng khó hơn – như một số vị đại nhân chứng cho sự thánh đức của Chúa Kitô đã thực hiện – trong việc đón nhận nó như là một yếu tố quan trọng trong ơn gọi của chúng ta, hay chấp nhận, như Bernadette đã diễn tả, ‘chịu đựng hết mọi sự cách âm thầm để làm vui lòng Chúa Giêsu’. Để có thể nói như thế, cần phải thực hiện một cuộc hành trình kết hiệp lâu dài với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vào lúc này đây, chúng ta vẫn có thể phó mình cho tình thương của Thiên Chúa, một tình thương được thể hiện qua tích sủng của phép xức dầu thánh. Chính Bernadette, trong đời sống cũng thường bị bệnh nạn, đã lãnh nhận lãnh nhận bí tích này 4 lần. Ân sủng của bí tích này là ở chỗ đón nhận Chúa Kitô là vị chữa lành vào đời sống của chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Kitô không phải là một chữa lành viên theo kiểu thế gian. Để chữa lành chúng ta, Người không ở ngoài khổ đau là những gì đang được cảm nghiệm thấy; Người làm cho đau khổ trở nên nhẹ nhàng khi đến ở trong người bị bệnh nạn, chịu đựng đau khổ và sống đau khổ với họ. Sự hiện diện của Chúa Kitô đến là để phá vỡ cái lẻ loi cô độc gây ra bởi đớn đau. Con người không còn chịu đựng gánh nặng một mình nữa: là một phần tử đau đớn của Chúa Kitô, họ được tuân hợp Chúa Kitô nơi việc tự hiến của Người lên Chúa Cha, và họ tham dự với Người vào việc hạ sinh một cuộc tân tạo.

 

Không có ơn trợ giúp của Chúa thì cái ách bệnh tật và khổ đau là những gì đè nặng trên chúng ta một cách dữ dội. Nhờ lãnh nhận bí tích bệnh nhân, chúng ta tìm cách để gánh vác chính cái ách của Chúa Kitô, một cái ách được kiên cường bởi lời Người hứa với chúng ta rằng ánh của Người sẽ êm ái mang vác và gánh của Người thì nhẹ nhàng (cf. Mt 11:30). Tôi mời gọi những ai lãnh nhận bí tích bệnh nhân này trong Thánh Lễ đây hãy tiến vào một niềm hy vọng như thế.

 

Công Đồng Chung Vaticanô II đã cho thấy Mẹ Maria như hình ảnh gương mẫu cho tất cả mầu nhiệm của Giáo Hội (cf. Lumen Gentium, 63-65). Cuộc hành trình của Mẹ là những gì phác tả về hình ảnh của Giáo Hội, một Giáo Hội được kêu gọi sống như Mẹ trong việc chú trọng tới những ai đang khổ đau. (ĐTC tiếp theo ngỏ lời cám ơn thành phần phục vụ bệnh nhân). 

 

Việc phục vụ bác ai anh chị em cống hiến là việc phục vụ Thánh Mẫu. Mẹ Maria trao phó nụ cười của Mẹ cho anh chị em, để chính anh chị em có thể trở nên, khi trung thành với Con Mẹ, những suối nước sự sống. Bất cứ anh chị em làm gì, anh chị em hãy làm nhân danh Giáo Hội, một Giáo Hội mà Mẹ Maria là hình ảnh tinh tuyền nhất. Chớ gì anh chị em mang nụ cười của Mẹ đến cho hết mọi người!

Để kết thúc, tôi muốn hợp lời cầu nguyện của những người hành hương và của người bệnh, và muốn cầu nguyện với anh chị em một đoạn từ lời nguyện cầu cùng Mẹ Maria được soạn cho dịp mừng kỷ niệm này:

 

Vì Mẹ là nụ cười của thiên Chúa, là phản ảnh ánh sáng của Chúa Kitô, là nơi cư ngụ của Chúa Thánh Thần.

 

Vì Mẹ đã chọn Bernadette là một con người thấp hèn, vì Mẹ là ánh sao mai, là cổng trời và là đệ nhất tạo vật cảm nghiệm được cuộc phục sinh.

 

Mẹ là Đức Mẹ Lộ Đức’, chúng con cầu cùng Mẹ cùng với những người anh chị em của chúng con đang cảm thấy đớn đau trong tâm hồn và nơi thể xác của họ.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2008/documents/hf_ben-xvi_hom_20080915_lourdes-malati_en.html 

 

Giáo hội Hàn Quốc tổ chức nghi lễ kính nhớ tổ tiên để an ủi người di cư

WONJU, Hàn Quốc (UCAN 16/9/2008) -- Nổi bật trong Thánh lễ hôm 10-9 tại nhà thờ Taejang-dong ở đây là “bàn dâng lễ vật” gồm rau quả, thịt, gạo và xúp.

Tuy nhiên, điều làm cho Thánh lễ nhân dịp Chuseok, lễ tạ ơn mùa gặt trăng rằm của Hàn Quốc, còn độc đáo hơn đó là hầu hết trong số 150 người tham dự là di dân, trong đó có người tị nạn Bắc Hàn.

“Hôm nay chúng ta tổ chức Thánh lễ đặc biệt và nghi thức kính nhớ tổ tiên để cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà. Mặc dù tất cả các anh chị em rời khỏi quê nhà và định cư ở một nơi xa xôi, nhưng anh chị em vẫn luôn hướng về cha mẹ và quê nhà”, linh mục Simon Kim Han-ki, người cử hành nghi thức phụng vụ, nói.

Cha Kim làm chủ tịch Uỷ ban Hoà giải Quốc gia và Uỷ ban Mục vụ Người lao động Di cư của giáo phận Wonju, hai uỷ ban đồng tổ chức sự kiện này. Ngài phát biểu với người di cư: “Cuộc sống của anh chị em không dễ dàng, và anh chị em cảm thấy đau khổ nhiều. Nhưng nếu chúng ta tập trung lại và chia sẻ những đau khổ của chúng ta, chúng ta có thể xoa dịu được nỗi đau”.

Sau bài giảng lễ, họ thay phiên nhau tiến lên bàn dâng lễ vật trước bàn thờ, dâng rượu lên ông bà và vái lạy hai cái. Một số người tị nạn Bắc Hàn đã cảm động rơi nước mắt.

Vào lễ hội Chuseok, hàng triệu người dân Triều Tiên bất chấp cảnh xe cộ đông đúc trở về quê đoàn tụ cùng gia đình. Họ tổ chức nghi thức kính nhớ tổ tiên theo truyền thống (charye) và viếng mộ ông bà. Năm nay, Chuseok rơi vào ngày 14-9.

Trong số nhiều người nói chuyện với UCA News tại thánh lễ hôm 10-9 ở Wonju, cách Seoul 90 km về phía đông nam, có một người tị nạn cho biết anh trốn khỏi Bắc Hàn cách đây bảy năm, bỏ lại bố mẹ và hai anh em trai. “Tôi không biết hiện giờ họ sống ra sao và tôi rất nhớ họ. Khi đến lễ Chuseok, tôi nhớ nhà nhiều hơn. Bàn charye do nhà thờ chuẩn bị giúp tôi cảm thấy được an ủi khi không thể viếng thăm bố mẹ được”.

Một người tị nạn Bắc Hàn khác nói: “Mặc dù tôi là người ngoại đạo, nhưng tôi cám ơn Giáo hội đã cưu mang những người bị bỏ rơi như chúng tôi. Sự kiện này còn tạo cho chúng tôi cơ hội gặp gỡ nhau. Chúng tôi không dễ gì gặp được nhau do điều kiện sống khó khăn”. Bắc Hàn cũng kỷ niệm Chuseok là ngày quốc lễ giống như ở Hàn Quốc, anh nói thêm.

Jennifer, một người Philippines kết hôn với một người Hàn Quốc, nhận xét các ngày nghỉ lễ là dịp đoàn tụ gia đình ở mọi quốc gia. “Nhưng vì tôi đang sống xa gia đình, nên tôi rất nhớ nhà. Sự kiện này an ủi chúng tôi và giúp chúng tôi bớt nhớ nhà”.

Tuy Layorn, một người Campuchia lấy chồng Hàn Quốc, mặc bộ hanbok, trang phục truyền thống của phụ nữ Hàn Quốc, nhiều màu sắc. Chị nói: “Tôi đến đây ba năm rồi. Tôi rất nhớ gia đình và càng nhớ hơn vào các ngày lễ. Nhưng tôi đang cố thích nghi với cách sống ở đây, vì thế bây giờ đã cảm thấy ổn”.

Bà mẹ 24 tuổi của hai người con nói tiếp: “Là một người ngoại quốc, đôi khi tôi cảm thấy có chút bị phân biệt đối xử. Nhưng tôi không quan tâm, vì ở đây cũng có nhiều người tốt”.

Sau Thánh lễ, những người tham dự dùng cơm chung do giáo xứ chiêu đãi và thưởng thức các tiết mục âm nhạc truyền thống do học sinh của một trường trung học gần đó biểu diễn.

Cha Kim giải thích với UCA News rằng “an ủi người di cư và tạo cho họ cơ hội chia sẻ nỗi đau” là đang thực hành tình yêu của Thiên Chúa. “Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ‘mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25,40)’”.

Hai uỷ ban của giáo phận Wonju tổ chức một nghi lễ Chuseok tương tự lần đầu tiên hồi năm ngoái có ý biến nó thành một sự kiện hàng năm.

Tính đến năm 2007, theo Bộ Thống nhất, có 10.355 người tị nạn Bắc Hàn đến Hàn Quốc.

Theo Bộ Tư pháp, có 1.066.237 người ngoại quốc sinh sống tại Hàn Quốc trong năm 2007. Trong đó có khoảng 110.000 đến Hàn Quốc theo diện kết hôn, đa số là phụ nữ đến từ Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.

UCAN

Mục lục

 

Văn thư của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam gửi Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội về sự việc Tòa Khâm Sứ Và Giáo Xứ Thái Hà.

 

Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam

Số: 10/GHVN

 

Tòa Giám Mục Xuân Lộc, ngày 25 tháng 9 năm 2008

 

Kính gửi: Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội

 

Kính thưa qúy Ủy Ban,

Chúng tôi đã nhận được văn thư số 1437/UBND-NC, do Ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBND Tp. Hà Nội, ký ngày 23 tháng 9 năm 2008, về việc "xử lý những vi phạm của một số giáo sỹ thuộc giáo phận Hà Nội".

Trong văn thư này, qúy Ủy Ban có kiến nghị Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam "xem xét, xử lý và đề nghị xử lý nghiêm minh theo quy định của Giáo hội đối với Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt, linh mục Vũ Khởi Phụng, các giáo sỹ Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Nam Phong".

Sau khi xem xét, chúng tôi thấy các vị này không làm bất cứ điều gì ngược lại giáo luật hiện hành của Giáo hội Công giáo.

Vì thế, chúng tôi xin thông báo để quý Ủy Ban được rõ; đồng thời, xin gửi kèm theo đây bản Quan điểm của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay, để quý Ủy Ban tham khảo thêm.

Trân trọng kính chào.

 

TM. HÐGM Việt Nam

Chủ Tịch

(Ký tên và đóng dấu)

Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

 

Nơi nhận:

- Văn phòng Thủ tướng

- Văn phòng Chủ tịch nước

- Ban Tôn giáo Chính phủ

- Bộ Ngoại giao

- Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam 38 Kỳ Ðồng, Q.3, TP.HCM

- Lưu

Mục lục

 

 

 

QUAN ĐIỂM CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY


Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của người dân Việt Nam cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của chúng tôi, các giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Giáo hội không có chức năng làm chính trị, nhưng cũng không đứng bên lề xã hội. Do đó, là những người lãnh đạo trong Giáo hội, chúng tôi có trách nhiệm rao giảng giáo huấn của Giáo hội về xã hội, nhằm thăng tiến con người và đời sống xã hội một cách toàn diện. Sau khi cầu nguyện và trao đổi với nhau, chúng tôi muốn bày tỏ quan điểm của mình về một số vấn đề quan trọng trong hoàn cảnh hiện nay.


I. TÌNH HÌNH


1. Tình hình khiếu kiện đất đai kéo dài và chưa được giải quyết thỏa đáng là vấn đề thời sự, trong đó có đất đai của các tôn giáo nói chung và giáo hội công giáo nói riêng, cụ thể như vụ việc Tòa Khâm sứ cũ (số 42 Nhà Chung) và giáo xứ Thái Hà (số 178 Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội). Chắc chắn có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng ở đây chúng tôi muốn lưu ý đặc biệt đến điều này: luật về đất đai tuy đã sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng kịp đà biến chuyển trong đời sống xã hội, đặc biệt là chưa quan tâm đến quyền tư hữu chính đáng của người dân. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ càng làm cho tình hình tệ hại thêm. Thiết nghĩ không thể có một giải quyết tận gốc nếu không quan tâm đến những yếu tố này.


2. Trong tiến trình giải quyết những tranh chấp, một số phương tiện truyền thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo rắc hoang mang và nghi kỵ. Quả thật, chưa bao giờ các phương tiện truyền thông phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như ngày nay, nhờ đó con người được gia tăng hiểu biết và phát triển tình liên đới. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông chỉ thực sự mang lại lợi ích cho con người và cộng đồng xã hội khi phục vụ sự thật và phản ánh thực tại một cách trung thực. Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc, không thể không quan tâm đến tình trạng này.


Cũng trong tiến trình giải quyết những xung đột nêu trên và nhiều vụ việc khác, một số người có khuynh hướng sử dụng bạo lực, và như thế, tạo thêm bất công trong xã hội. Điều này đang có chiều hướng gia tăng, không những trong các vấn đề lớn của xã hội mà ngay cả trong đời sống gia đình cũng như tại học đường. Bạo hành và bạo lực bắt nguồn từ chính tâm hồn con người, nơi đó cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối không ngừng diễn ra. Nếu không được hướng dẫn và tập luyện, con người sẽ dễ dàng chiều theo những tham vọng ích kỷ của mình, và cái ác sẽ lan tràn trong đời sống xã hội. Do đó, việc giáo dục đạo đức và huấn luyện lương tâm phải là trách nhiệm hàng đầu của toàn xã hội, và cần đến sự tham gia tích cực của người dân cũng như các tổ chức xã hội.


II. QUAN ĐIỂM


Đứng trước tình hình trên, chúng tôi có những đề nghị cụ thể như sau:


1. Trước hết nếu luật về đất đai còn nhiều bất cập thì nên sửa đổi cho hoàn chỉnh. Việc sửa đổi này cần phải quan tâm đến quyền tư hữu của người dân như Tuyên ngôn quốc tế của Liên hiệp quốc về Nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền tư hữu riêng mình hay chung với người khác… và không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình cách độc đoán” (số 17). Vì thế, chúng tôi cho rằng thay vì chỉ giải quyết theo kiểu đối phó hoặc cá biệt, thì giới hữu trách phải tìm giải pháp triệt để hơn, tức là để người dân có quyền làm chủ tài sản, đất đai của họ, đồng thời người dân cũng phải ý thức trách nhiệm của mình đối với xã hội. Đòi hỏi này lại càng khẩn thiết hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nhịp sống chung của thế giới. Đây sẽ là tiền đề cho việc giải quyết tận gốc những vụ khiếu kiện về đất đai và tài sản của người dân, đồng thời góp phần tích cực vào tự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển vững bền của đất nước.


2. Kế đến, đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải tôn trọng sự thật. Trong thực tế, đã có những thông tin bị bóp méo hoặc cắt xén, như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Tòa Khâm sứ cũ. Vì thế, chúng tôi đề nghị những người làm công tác truyền thông đại chúng phải hết sức cẩn trọng khi đưa tin tức và hình ảnh, nhất là khi liên quan đến danh dự và uy tín của cá nhân cũng như tập thể. Nếu đã phổ biến những thông tin sai lạc thì cần phải cải chính. Chỉ khi tôn trọng sự thật, truyền thông mới thực sự hoàn thành chức năng của mình là thông tin và giáo dục nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.


3. Cuối cùng, truyền thống văn hóa và đạo đức của dân Việt vốn nhấn mạnh đến tình tương tương tương ái và sự hài hòa trong xã hội. Tuy nhiên khi giải quyết những tranh chấp gần đây, đáng tiếc là đã có những hành vi sử dụng bạo lực, làm mất đi tương quan hài hòa trong cuộc sống. Vì thế, chúng tôi tha thiết mong ước mọi người hãy chấm dứt mọi hình thức bạo lực, trong hành động cũng như trong ngôn từ. Cũng không nên nhìn những tranh chấp này theo quan điểm chính trị và hình sự. Một giải pháp thỏa đáng chỉ có thể đạt được nhờ đối thoại thẳng thắn, cởi mở và chân thành, trong hòa bình và tôn trọng lẫn nhau.


Phát xuất từ ước mong góp phần tích cực vào việc phát triển đất nước cách ổn định và vững bền, những suy nghĩ này mong được gửi đến tất cả anh chị em đồng đạo cũng như mọi người thành tâm thiện chí. Chúng tôi xác tín rằng khi tất cả chúng tay cùng nhau xây dựng đất nước trên nền tảng công bằng, sự thật và tình yêu, thì quê hương Việt Nam sẽ ngày càng giàu đẹp, mang lại hạnh phúc ấm no cho mọi người, và góp phần kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn.

 

Làm tại Tòa Giám mục Xuân Lộc ngày 25.09.2008


TM HĐGM Việt Nam


Chủ tịch


Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Mục lục

 

NHỮNG DIỄN BIẾN VỤ VIỆC TÒA KHÂM SỨ GIÁO XỨ THÁI HÀ

Ngày 12.9.2008, khoảng 15 giờ, theo giấy mời của Ủy Ban Nhân Dân Quận Đống Đa, các linh mục, tu sĩ và giáo dân giáo xứ Thái Hà - DCCT Hà Nội đã đến Văn phòng UBND quận Đống Đa để trao đổi về một số vấn đề liên quan đến các sự kiện đang diễn ra ở giáo xứ Thái Hà.

Ông Nguyễn Đức Lưu, Phó Chủ tịch UBND Quận, Phụ trách khối Văn-Xã, giới thiệu và khai mạc. Ông nói mục đích của cuộc gặp là trao đổi một số vấn đề xung quanh giáo xứ Thái Hà, cụ thể là 3 điểm sau:

Thứ nhất: Trong thời gian gần đây tình hình khu vực Thái Hà có vẻ căng thẳng. Số lượng giáo dân về đông nên các ông ái ngại về vấn đề vệ sinh môi trường. Do đó, ông muốn linh mục Phụng làm sao cố gắng không làm cho tình hình căng thẳng thêm, “nói tóm lại là làm sao giảm bớt lượng người về”.

Thứ hai: Ông đặt vấn đề với cha Bề trên-Chính xứ “làm thế nào động viên khuyên nhủ giáo dân chủ động giải quyết vấn đề như là ảnh tượng tranh ảnh để chúng ta có điều kiện làm những việc tiếp theo”.

Thứ ba: Ông nói: “hôm nay chúng tôi muốn nghe thêm về phía giáo xứ, tình hình chung, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, của các linh mục trong vấn đề Thái Hà và cố gắng cùng với chính quyền chúng ta làm thế nào giải quyết việc này cho êm thấm và đồng thời đạt được nguyện vọng tốt đẹp.”

Tuy là ba vấn đề đã được nêu ra để thảo luận, nhưng chỉ có vấn đề thứ ba là quan trọng: “làm thế nào giải quyết việc này cho êm thấm và đồng thời đạt được nguyện vọng tốt đẹp.”

Trong khi giáo dân đang lo bảo vệ đất của giáo xứ Thái Hà, chính quyền cho mở cuộc tấn công vào Toà Khâm Sứ, nơi mà chính quyền đã hứa trao trả lại cho Giáo Hội.

Sáng 19.9.2008, như thường lệ, sau thánh lễ sớm, giáo dân trong giáo xứ chính tòa cùng nhau sang Tòa Khâm Sứ cầu nguyện với Mẹ Sầu Bi, mong cho Công Lý và Hòa Bình sớm triển nở trên quê hương Việt Nam. Nhưng họ đã bị chặn lại trên đường đi tới Tòa Khâm Sứ.

Chính quyền Hà Nội đã đưa hàng trăm công an và cảnh sát đến bao vây khu vực Toà TGM Hà Nội và phố nhà Nhà Chung. Lực lượng cảnh sát cơ động được trang bị dùi cui và súng ống cô lập hai khu vực này, không cho ai ra vào. Cả những con chó nghiệp vụ cũng được dắt tới. Sau đó, các máy ủi đất đã được kéo đến Tòa Khâm Sứ.

Đoạn đường phố Nhà Chung bị phong toả cả hai đầu. Tất cả truờng học trong khu vực đều bị đóng cửa và bên ngoài các nhân viên an ninh đứng dày đặc. Cảnh sát đã giăng thép gai để chận mọi lối độp nhật vào Tòa Khâm Sứ. Công an cấm tất cả mọi người lai vãng tới Toà Khâm Sứ. Toà TGM và Dòng Mến Thánh Giá không có lối đi ra vào. Các bảng nghiêm cấm quay phim và chụp hình được dựng lên. Tuy nhiên, các phóng viên báo chí, truyền thanh và truyền hình của nhà nước tập trung đông đảo.

Trong chốc lát, Tòa Khâm sứ bỗng trở nên “công trường đang thi công”. Bức tường rào đã bị đổ xuống. Cả khu vực bị khuấy động bởi tiếng máy xúc, máy ủi, máy hàn...

Nhận được những tin tức nói trên, chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội đã đổ từng hồi dài, báo hiệu có sự nguy cấp đang xẩy ra. Tiếp theo là tiếng chuông của khoảng 500 nhà thờ quanh Hà Nội và các tỉnh chung quanh như Hà Tây, Hà Nam và Nam Định cũng đã dóng lên trong khoảng một tiếng đồng hồ.

Người này báo tin khẩn cấp cho người kia, hàng loạt các linh mục, giáo dân trong thành phố và vùng phụ cận đã kéo ngay về Toà Khâm Sứ. Tiếng cầu kinh và tiếng hát lại vang lên.

Hảng thông tấn AP cho biết giả Ben Stocking, 49 tuổi, trưởng đại diện của họ tại Hà Nội đã bị “đấm, bóp cổ và đập vào đầu” khi đưa tin về cuộc cầu nguyện của giáo dân ở khu vực Tòa Khâm Sứ. Hãng này cũng cho biết máy ảnh của ông Stocking đã bị tịch thu và hiện chưa được hoàn trả.

Linh mục Nguyễn Văn Khải thuộc giáo xứ Thái Hà, đang cư ngụ trong Nhà Thờ Lớn Hà Nội, nói với thông tấn xã DPA của Đức rằng khoảng 200 cảnh sát và 2 xe ủi đất đã tới đây lúc 4 giờ sáng, và vào lúc 4 giờ 30, họ phá tường và các vật dụng trên miếng đất, rồi phong tỏa toàn bộ khu vực này khiến không ai ra vào được.

Ông Nguyễn Thịnh Thanh thuộc UBND thành phố Hà Nội cho hay chính quyền đang dọn dẹp miếng đất để xây cất một thư viện và một công viên cho dân chúng. Theo ông, chính quyền không phải xin phép giáo xứ, vì miếng đất này trực thuộc nhà nước.

Ông Thanh nói rằng sẽ không có biện pháp trừng phạt nhắm vào các giáo dân từng đến đây cầu nguyện, ngoại trừ trường hợp họ có những hành động quá khích khiến cảnh sát phải can thiệp. Ông cũng cho biết chính quyền đã thông báo cho giáo xứ biết trước về các hành động của chính quyền sáng thứ sáu, nhưng các Linh mục tại đây cho hay họ không nhận được một lời thông báo nào.

Linh mục Khải nói với thông tấn xã DPA rằng tín đồ Công giáo đang tranh đấu cho hòa bình, công lý và sẵn sàng chết.

Theo ông Nguyễn Văn Hải, Phó giám đốc Sở Quy hoạch - Kiến trúc Hà Nội, tổng diện tích khu đất nghiên cứu quy hoạch là 6.845,6m2 sẽ được xây dựng thành công viên vườn hoa, tiểu cảnh hài hòa với tòa nhà 3 tầng hiện có, và dự kiến sẽ chuyển thành phòng đọc, thư viện sau khi chỉnh trang lại.

Báo Hà Nội Mới, cơ quan xung kích của UBND thành phố Hà Nội, ngày 19.9.2008 cho biết như sau:

Thực hiện chỉ đạo của Thủ Tướng Chính Phủ, UBND thành phố Hà Nội đã giao Sở Quy hoạch kiến trúc chủ trì, phối hợp với UBND quận Hoàn Kiếm lập quy hoạch tổng mặt bằng khu Công viên cây xanh - Thư viện phục vụ cộng đồng dân cư tại khu đất 42 Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm. Nội dung kế hoạch chủ yếu như sau: Chỉnh trang tu bổ công trình kiến trúc 3 tầng hiện có trên khu đất (tức Toà Khâm Sứ cũ) làm thư viện phục vụ nhân dân trong khu vực. Toàn bộ khuôn viên còn lại của khu đất được xây dựng thành vườn hoa, sân chơi, tiểu cảnh, đường dạo phù hợp với cảnh quan xung quanh. Các cây xanh lâu năm hiện có được giữ lại kết hợp với thiết kế cảnh quan gồm các tiểu cảnh, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ trong công viên.

Trong khi Công An và Cảnh Sát bao vậy khu Toà Khâm Sứ, một đoàn người đông đảo mặc áo “đoàn viên thanh niên” đã đến Thái Hà để quấy rối.

Lúc 10 giờ, một phái đoàn do Đức TGM Ngô Quang Kiệt dẫn đầu đã đến họp với UBND thành phố Hà Nội. Cuộc họp đã kéo dài 4 tiềng đồng hồ, nhưng không giải quyết được gì.

Một nguồn tin cho biết phía Tòa TGM đã đưa ra những chứng cớ pháp lý và lịch sử về quyền sở hữu hợp pháp cuả mình đối với khu đất Tòa Khâm Sứ cũ, đồng thời luôn nhấn mạnh rằng Tòa TGM chưa bao giờ hiến, tặng nhà và đất khu Tòa Khâm Sứ này cho bất cứ ai, bất cứ tổ chức hay chính quyền nào. Bằng những lý luận sắc bén và với tư cách của những người nắm giữ chính lý và sự thật, Đức TGM và các linh mục đã phân tích một cách đầy đủ và hợp pháp cho những yêu cầu của mình. Nhưng phía UBND thành phố Hà Nội đã nhận cứ nhắc đi nhắc điệp khúc “theo nghị quyết 23 của Quốc Hội thì không có cơ sở giải quyết”. Rõ ràng đây chỉ là một cuộc nói chuyện với người điếc!

Phái đoàn Tòa TGM cũng đã yêu cầu chính quyền nhanh chóng ngừng thi công trên khu đất thuộc Tòa Khâm Sứ cũ đồng thời xóa bỏ lệnh phong tỏa bất hợp pháp Tòa TGM và Dòng Mến Thánh Giá. Nhưng ông Chủ Tịch UBND thành phố Hà Nội cho rằng chính quyền chỉ phân luồng giao thông chứ không cấm hay phong tỏa các lối vào Tòa TGM!

Liền sau đó, một sự thật đã xẩy ra: Lúc 13 giờ, phái đoàn Toà TGM trở về, khi qua khu phố Nhà Chung, một linh mục phải xuống thương lượng, công an mới cho phép mở hàng rào phong tỏa để xe đi qua.

Lúc 19 giờ ngày 19.9.2008, đài Truyền Hình Việt Nam đã loan những tin thiếu khách quan về cuộc họp giữa phái đoàn Tòa TGM với đại diện UBND thành phố Hà Nội vào buổi sáng. Họ bỏ đi tất cả những tài liệu và dẫn chứng pháp lý về quyền sở hữu khu đất Toà Khâm Sứ mà Toà TGM Hà Nội đã nêu ra. Họ chỉ nhắc lại những ngụy biện của phía chính quyền. Báo Hà Nội Mới ngày 21.9.2008 cũng đã đưa ra một luận điệu tương tự.

Để phản lại các các thông tin sai lạc liên quan đến lời phát biểu của Đức TGM Ngô Quang Kiệt trước UBND, Toà TGM Hà Nội đã cho công bố lời phát biểu này nguyên văn như sau:

“Tôi hết sức cám ơn ông Chủ tịch Uûy Ban Nhân Dân thành phố Hà nội cũng như là tất cả các ban ngành trong Thành Phố Hà nội đã dành cho chúng tôi một buổi tiếp xúc vừa trân trọng vừa cởi mở và chân tình. Những lời ông Chủ tịch nói kết thúc thật là đẹp và tất cả chúng ta ai cũng mong muốn, thật ra có một sự hài hoà trong cái khối đoàn kết thống nhất. Tuy nhiên muốn có cái hài hoà trong cái mối thống nhất thì đâu chỉ có cái tình mà phải có lý nữa, tục ngữ pháp có nói rằng: những cái tính toán nó đúng mực nó mới là những người bạn tốt được. Muốn bạn tốt với nhau cũng phải tình lý phân minh chứ không phải chỉ có tình mà thôi. Chính vì thế tôi cũng xin có một vài lời cuối cùng trước những lời kết thúc của ông Chủ tịch.

“Trước hết ông Chủ tịch có nói rằng Ủy ban nhân dân TP đã tạo rất là nhiều điều kiện cho Giáo Hội Công Giáo trong những năm qua nhất là dịp Lễ Noel… chúng ta phải công nhận trong những năm gần đây có nhiều điều kiện, thế tuy nhiên khi như thế, khi nói tạo điều kiện vẫn còn mang cái tâm lý “xin-cho”: tức là cái này là ân huệ tôi ban cho anh đó. Nhưng mà cái tôn giáo là cái quyền tự nhiên con người được hưởng. Và nhà nước vì dân cho dân phải có trách nhiệm tạo cái điều đó cho người dân chứ không phải cái ân huệ chúng tôi xin. Không có. Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là cái ân huệ “XIN-CHO”.

“Cái thứ hai, ông Chủ tịch có nói mọi cư xử phải vừa dựa trên pháp luật và cũng phải trên tình người, và công dân. Cái điều đó tôi rất đồng ý, rất là tâm đắc. Tuy nhiên trong cái thực chúng ta phải làm như thế. Đó về phương diện pháp luật chúng ta phải làm theo pháp luật, thì cái gì cũng phải có cơ sở pháp lý. Ông Chủ tịch có nói rằng đất đai thì nó từ ngàn xưa không biết nguồn gốc từ đâu mà đến, thời Giáo Hội Công Giáo thì lại được trao cấp cái đó thì chúng tôi công nhận cái đó. Thế nhưng ít ra khi cấp như thế người ta có một mảnh giấy công nhận là đây được cấp. Và đến thời chính quyền sau có thể thay đổi, nhưng phải có giấy tờ để chứng minh cái sự thay đổi (và không ai có thể thay đổi được là làm sao?). Thế thì trên mảnh đất 42 chúng tôi chưa được cái văn bản nào của nhà nước nói về cái sự thay đổi đó. Không có đi vào cái diện cải tạo tư sản, không có đi vào cái diện cải tạo nông nghiệp, cũng không có cái văn bản nói lên sự tịch thu hay là trưng thu trao cho cơ quan nào, hoàn toàn không có. Thực ra, có thể nói việc quản lý của cơ quan nào đó là chưa có hợp pháp, trên cái căn bản là chúng ta phải có giấy tờ, chứ bây giờ kẻ cướp vào nhà chúng tôi rồi ngang nhiên ở đó rồi không có giấy tờ gì hết và họ mạnh chúng tôi không đuổi ra được thì đương nhiên họ chiếm hay sao?! Phải có giấy tờ, cần có văn bản pháp lý. Thế thì về vấn đề pháp luật thì vấn đề đất 42 chúng tôi chưa hai lòng với câu trả lời của ông. Chúng ta phải sống theo pháp luật, thì phải có văn bản giấy tờ của chính quyền. Thời chính quyền này có thể thay đổi, chính quyền sau có thể thay đổi nhưng phải có giấy tờ văn bản rõ ràng. Chúng tôi thấy đất 42 chưa có cái văn bản đó.

“Cái vấn đề thứ hai, ông Chủ tịch có nói ra ngoài vấn đề pháp lý, chúng ta phải cư sử theo tình người, nguyện vọng của người dân thì chúng tôi thấy vẫn chưa được: biết bao nguyện vọng chúng tôi nêu lên, ít nhất là qua 15 lá đơn của Toà Tổng Giám mục Hà nội và Hội Đồng Giám Mục bao nhiêu lần nữa, nguyện vọng chúng tôi về cái đất đó gắn bó với chúng tôi, nó gần gũi với chúng tôi. Nguyện vọng thật là chính đáng nhưng không bao giờ được giải quyết cả. Cho nên có thể nói đó cho chúng tôi thấy cái lý thuyết, nguyên tắc ông Chủ tịch đưa ra rất hay nhưng chưa thực hiện được, nguyện vọng cũng như pháp lý.

“Chúng tôi không tranh chấp với nhà nước. Bằng chứng đó là, như ông Chủ tịch có nói đó, trong tờ kê khai của linh mục Nguyên Tùng Cương, lúc đó là quản lý Tòa Tổng Giám Mục, có 95 cơ sở. Chúng tôi có đòi cơ sở nào đâu, vì những cơ sở đó thực sự dùng vào những lợi ích chung. Chẳng hạn như cái trường Hoàn Kiếm, chúng tôi không bao giờ nói tới. Bệnh viện Saint Paul chúng tôi không bao giờ giám nói tới. Bệnh viện Bài Lao không bao giờ chúng tôi giám nói tới, vì sử dụng vào lợi ích chung. Nhưng khách san Láng Hạ chúng tôi sẽ nói tới, bởi vì sử dụng vào mục đích kinh doanh. Và cái Tòa Khâm Sứ đã thành cái nơi sàn nhảy, đã thành cái nơi kinh doanh buôn bán, đã có cái dấu hiệu buôn bán chia chác để làm cái trung tâm thương mại. Chúng tôi nói tới bởi vì nó rơi vào tay tư nhân, thế nên chúng tôi nói, thế nên chúng tôi không tranh chấp với nhà nước, nhưng chúng tôi nói lên cái tiếng nói của công lý. Bằng chứng cái trường Hoàn Kiếm bên cạnh, chúng tôi có bao giờ dám đòi đâu. Bởi vì nó phục vụ lợi ích chung, các bệnh viện nó phục vụ lợi ích chung. Do đó, chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc.

"Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng. Thế nhưng chúng ta không phải chỉ có tình cảm mong muốn là được mà phải có lý luận xây dựng thật là vững chắc trền nền tảng pháp lý. Một lần nữa chúng tôi xin hết sức cám ơn ông Chủ tịch và Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội dã dành cho chúng tôi một buổi tiếp đón thật là trân trọng và thân tình và hứa hẹn những trao đổi khác thì chúng tôi thấy hy vọng như thế chúng ta hiểu nhau hơn và mới có thể làm cho thành phố Hà Nội chúng ta nói riêng, tiến đến kỷ niệm ngàn năm Thăng Long được vui vẻ, xứng đáng là một thành phố hòa bình và trong hòa bình thì có công lý và làm cho đất nước chúng ta càng ngày càng phát triển.

Tôi xin cám ơn.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Lúc 14 giờ, Phó Thủ Tướng Trương Vĩnh Trọng được trưởng công an quận Đông Đa tháp tùng, đã đi quanh quan sát linh địa một vòng.

Lúc 18 giờ, một Thánh lễ đã được cử hành long trọng tại nhà thờ Chính Tòa Hà Nội do Linh mục Chu Văn Minh, giám đốc đại chủng viện chủ tế, với sự đồng tế của các linh mục đến từ các xứ trong vùng Hà Nội. Số lượng giáo dân tham dự khoảng trên dưới 5.000 người. Sau thánh lễ, các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo dân cùng thắp nến tiến ra cầu nguyện cạnh Tòa Khâm Sứ. Đoàn người đứng kín cả khu vực phố Nhà Chung và Tòa TGM. Đặc biệt, Đức Giám Mục Phaolo Lê Đắc Trọng, nguyên Giám Mục Phụ Tá Hà Nội, mặc dù đã ngoài 90 tuổi và đau yếu, nhưng ngài đã từ Nam Định lên đây hiệp thông cầu nguyện.

Lúc 20 giờ, tại Nhà Thờ Chính Tòa, một thánh lễ tiếp theo do Linh mục Nguyễn Văn Khải DCCT cửa hành. Kết thúc thánh lễ, giáo dân lại cùng các linh mục tiến đến cầu nguyện cạnh Tòa Khâm Sứ. Số lượng người tham dự vẫn đông và đầy trang nghiêm.

Tại giáo xứ Thái Hà, lúc 20 giờ, khi thánh lễ thứ tư trong ngày kết thúc, các linh mục và giáo dân kéo ra linh địa cầu nguyện. Một linh mục đã thông báo cho biết nhiều toán thanh niên đang được đưa tới để phá cuộc cầu nguyện, nên phải cảnh giác. Khi đoàn rước từ nhà thờ ra tới nơi, mọi người chứng kiến cả trăm thanh niên thuộc “Đoàn Thanh Niên Cộng Sản HCM”, đang đứng gần tượng đài Đức Mẹ Mân Côi hát vang bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” và bài “Một con vịt xòe ra hai cái cánh.” Dù bị quấy phá, giáo dân vẫn ôn hòa cầu nguyện một cách sốt sắng.

Khoảng 21 giờ 30, giáo dân đã lập một bàn thờ nhỏ với Thánh Giá và một tượng Đức Mẹ ngay trước cổng Tòa TGM, phía hướng sang khu đất thuộc Toà Khâm Sứ. Mọi người sốt sắng cầu nguyện.

Phiá trong khu đất bị chiếm dụng, các máy phá đang hạ nốt những bức tường phía sau (giáp với nhà khách Tòa TGM), bụi bay mù mịt khắp không gian. Những tảng bê tông lớn cũng rơi xuống sân Tòa TGM, làm đổ một đoạn tường dài ngăn cách Tòa TGM và Tòa Khâm Sứ. Cạnh nhà khách của Tòa TGM, người ta thấy tràn ngập gạch đá và bê tông nằm ngổn ngang. Khu đất Tòa Khâm Sứ đang được biến thành một công viên với cây và hoa được trồng gấp. Hệ thống điện mới cũng đã được thiết lập xong và thắp sáng lên.

Vào lúc 23 giờ, một số công an đã vào Tu Viện DCCT Thái Hà để kiểm ta hộ khẩu những người hiện tạm trú tại đây!

Sáng Chúa nhật 21.9.2006 hàng nghìn tín hữu đã đổ về nhà thờ Thái Hà dự lễ Chúa nhật và viếng Linh địa Đức Bà. Chúa nhật hôm nay có 6 lễ mà lễ nào cũng ngồi đầy bên trong bên ngoài nhà thờ, chưa kể số ngồi ở Linh địa và Đền Thánh Giêrađô.

Tại Linh địa có đông các “đoàn viên thanh niên” xếp hàng đi ra đi vào hát các bài “nhạc đỏ” và khiêu khích. Có rất nhiều công an và kẻ phá đám đi vào nhà thờ.

Sau đó, UBND phành phố Hà Nội đã cho phổ biến công văn số 1370/UBND-TNMT ngày 21.9.2008 cảnh cáo ông Ngô Quang Kiệt, Tổng giám mục giáo phận Hà Nội. Công văn nói rằng “với trách nhiệm, cương vị là Tổng giám mục giáo phận Hà Nội, ông Ngô Quang Kiệt đã không những không thực hiện đúng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, phối hợp với chính quyền các cấp vận động, khuyên bảo các giáo sỹ, giáo dân chấm dứt các hoạt động vi phạm pháp luật mà còn trực tiếp tham gia kích động, lôi kéo, khuyến khích bằng các bài trả lời phỏng vấn, thư hiệp thông, các văn bản của Tòa Tổng giám mục do ông ký có nội dung xấu, xuyên tạc sự thật đăng tải trên một số phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài.” Công văn yêu cầu: “Dừng ngay các hành vi vi phạm pháp luật. Nếu không sẽ bị xử lý theo quy định của Luật.” (!)

Từ 18 giờ có rất nhiều người trong trang phục “đoàn thanh niên” và những kẻ uống rượu say đến xếp hàng dọc phố Đức Bà chửi bậy bạ, tục tĩu. Cảnh sát cơ động đưa hàng rào sắt di động chắn ngang đường, chỉ chừa một lối đi nhỏ hai người có thể đi được. Các linh mục và giáo dân đi từ nhà thờ đến Linh địa đều bị mắng chửi hay đánh đập.

Khoảng gần 23 giờ, lực lượng “đoàn thanh niên” và những kẻ uống rượu say đến phá lều trại trên vỉa hè của các bà canh Linh địa và đánh đập các bà tàn nhẫn. Khoảng 23 giờ 45, hàng trăm người tập trung trước nhà thờ Thái Hà, phá cổng và định vào đập phá nhà thờ.

Lúc 0 giờ 10 ngày 22.9.2008, hàng trăm người kéo đến đập phá đền Giêrađô trước sự chứng kiến của rất đông lực lượng cảnh sát cơ động và công an. Những người đang ở khu đền Giêrađô đã giải tán kịp thời. Cả khu phố náo loạn. Sau đó họ kéo đến khu Dòng Chúa Cứu Thế uy hiếp các tu sĩ. Tu viện đóng chặt các cửa.

Tối 21 rạng ngày 22.9.2008, UBND thành phố Hà Nội đã cho một số đông du đảng tháo dỡ tất cả các lều bạt dựng trên vỉa hè ngách 49, ngõ 64 Nguyễn Lương Bằng, phá các tượng ảnh trong khu Linh địa trước sự bảo vệ của công an và cảnh sát. Các bà canh giữ linh địa đã bị đánh và bị khiêng ra khỏi khu vực bị cấm.

Ngày 22/9, Phó Chủ tịch UBND TP Vũ Hồng Khanh đã ký quyết định thu hồi diện tích tại 178 Nguyễn Lương Bằng, đồng thời cho phồ biến công văn số 1407/UBND-NC cảnh cáo một số giáo sỹ tại nhà thờ Thái Hà.

Đêm 23.9.2008, những kẻ du côn vẫn được huy động đến, nhưng có lẽ thấy đông giáo dân đến hiệp thông đông nên những kẻ được thuê đến không dám manh động. Tuy nhiên, thông tin từ các tu sĩ trong Tu viện cho biết, từ 22 giờ 30  tối 23/9 đến 1 giờ sáng 24/9, Tu viện liên tục nhận được những cú điện thoại khủng bố.

Trẩn Tâm tổng hợp

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

Một bài thơ

 

Có một bài thơ của một tác giả khuyết danh mà Hồng Y Jaime Sin, Tổng Giám mục Manila, Philippine, rất ưng ý và thường trích dẫn trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ  “Thiên Chúa nói không ” ấy như sau :

Tôi đã xin Thiên Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời : KHÔNG. Ngài nói rằng, không phải Ngài là người cất khỏi, mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.

 

Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời KHÔNG. Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thân xác chỉ là tạm bợ.

 

Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa trả lời KHÔNG. Ngài nói rằng kiên nhẫn là hoa trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi hoa trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.

 

Tôi đã xin Chúa ban cho tôi hạnh phúc và Chúa đã trả lời KHÔNG. Ngài nói rằng Ngài ban cho tôi phương tiện và ân điển, còn hạnh phúc hay không là hoàn toàn tuỳ nơi tôi.

 

Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa trả lời KHÔNG. Ngài nói rằng, tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi sanh nhiều hoa trái.

 

Tôi đã xin Chúa cho tôi đừng bị đau khổ và Ngài trả lời KHÔNG. Ngài nói rằng đau khổ là giúp tôi được xa lánh những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.

 

Tôi đã hỏi : Như thế, liệu Ngài có yêu tôi không và Ngài trả lời rằng CÓ. Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi NGƯỜI CON DUY NHẤT, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên đàng vì tôi đã tin.

 

Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân như Ngài đã yêu thương tôi và Chúa nói :

 “Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ đợi”.

 

Ý của Chúa và ý của TÔI

 

Bài thơ chỉ gồm 8 câu như một bài văn xuôi không niêm luật, về câu từ cũng chẳng có gì đặc biệt. Có thể nói bài thơ là những cấu trúc dưới trung bình, đó là về hình thức. Hoặc có thể vì là văn dịch và chỉ cần thoát ý nên các yếu tố khác không được quan tâm chăng .

 

Còn về phần ý tưởng của nội dung thì thật là một thất vọng lớn. Vì vị Thiên Chúa mà bài thơ đã diễn tả giống như một kẻ vô cảm và có vẻ nhẫn tâm trước nhu cầu rất chính đáng của con người.

Đó là cảm giác đầu tiên mà nhiều người đã có khi đọc bài thơ trên.

 

Nhưng khi đọc lại lần thứ hai và nhiều lần khác thì thấy bài thơ dễ hiểu ấy, thực sự là những soi sáng thật quý giúp đời sống đạo thêm ý nghĩa, bình an và nhờ thế, đức tin cũng thêm trưởng thành hơn rất nhiều.

 

Đã là người Công giáo thì ai cũng cầu nguyện. Cầu nguyện để xin các ơn lành cần thiết cho hồn và xác. Cầu nguyện để luôn được kết hợp mật thiết với Chúa, và từ đó, sẽ nhận được sức mạnh tâm linh và sự bình an nội tâm như một điều tất yếu.

 

Tuy nhiên, rất nhiều khi ta đã biến sự cầu nguyện thành những xin xỏ thuần tuý, và biến Chúa thành một ông thần giữ của, để mỗi khi cần, ta chỉ việc chạy đến gõ cửa sau khi đọc những câu thần chú là các lời kinh. Oi ! Tội nghiệp cho Chúa biết bao nhiêu.

 

Lạy Đức Chúa trời ba ngôi.

Tôi lấy được vợ, tôi thôi nhà thờ.

 

Kiểu cầu nguyện như trên đầy tính khôi hài, nhưng cũng đang là một thực tế phổ biến.

 

Cũng có thứ cầu nguyện sặc mùi mặc cả đổi chác, kiểu như “… Lạy Chúa, xin cho con khỏi bệnh và làm ăn phát đạt, con sẽ sống đạo tốt hơn và làm vinh danh Chúa hơn ….” .

 

Lại có kiểu cầu nguyện đầy những ngược ngạo áp đặt, thay vì tuân theo ý Chúa thì lại bắt Chúa phải vâng theo ý mình. Nếu không được như ý xin, thì cũng nghỉ chơi luôn cả với Chúa.

 

Trong đời sống hàng ngày, người ta thường nói với nhau “ Hãy luôn cầu nguyện và phải sống phó thác”. Điều này phải là kim chỉ nam trong tâm thức của những kẻ thực sự sống đạo. Nhưng phó thác không đồng nghĩa với buông xuôi và bỏ mặc để muốn ra sao thì ra.  Song phải là “tận nhân lực, tri thiên  mạng”, làm hết sức mình thì mới biết mệnh trời. Hãy tự giúp mình trước, rồi trời sẽ giúp sau.

 

Đời sống tự nhiên đã là như thế, đời sống siêu nhiên cũng chẳng thể khác.

 

Không có bậc cha mẹ nào muốn con cái mình mãi mãi là trẻ con, nhưng ai cũng mong nó ngày một chững chạc trưởng thành hơn. Đời sống đức tin cũng vậy, Thiên Chúa không chỉ mong mỏi, nhưng còn là đòi buộc những kẻ tin Ngài mỗi ngày phải một trưởng thành hơn, không thể cứ mãi mãi ăn sữa dành cho trẻ con. Ngài là Đấng toàn năng, nên Ngài thừa sức biến những hòn đá thành con cái Apbraham , xá gì những đức tính như can đảm, khiêm nhu, kiên nhẫn … … cho một con người.

 

Thánh Augustin nói : “Để dựng lên con, Ta không cần có con. Nhưng để cứu độ con, Ta rất cần có con cộng tác ”. Quả thật, Thiên Chúa đã làm hơn 99%, bằng cách đã ban cho ta một hình hài xác thân, cùng với trí khôn trí hiểu, lẽ nào ta lại từ chối một vinh dự lớn lao là giữ trí khôn trí hiểu ấy theo gương của Ngài, để chỉ xin những điều chẳng đáng xin.

 

Các nhân đức và tính tốt không từ trời rơi xuống, nhưng là do phải hiểu biết rồi ước ao và cố gắng rèn luyện tập tành qua từng ngày và từng ngày sống.

 

Trong trật tự  Thiên Chúa, không điều gì xảy đến cho bản thân mỗi người lại nằm ngoài thánh ý Chúa, vì vậy, Phúc âm luôn khuyên rằng : hãy tạ ơn Chúa trong hết mọi sự, vì tất cả đều là hồng ân.

Những điều tốt lành như thi đậu, trúng số …. ta dễ nhận đó là hồng ân để tạ ơn. Nhưng sẽ chẳng dễ dàng chút nào để nói là hồng ân khi bị đụng xe, khi thất nghiệp hoặc lúc bị ốm đau tật bệnh. … Những điều này giống như tai hoạ hơn là hồng ân, làm sao có thể tạ ơn khi bị tai hoạ ? Nếu có chăng, chỉ là trên lý thuyết nơi các trang giấy của các nhà tu đức chuyên khuyến thiện nhưng lại thiếu thực tế ?

 

Không, không phải vậy, trước khi vác Thập giá, ta thấy Chúa Giêsu đã run rảy cầu nguyện : “Lạy Cha, xin cho con khỏi uống chén này .”. Nhưng liền ngay đó, Ngài đã thêm, nhưng đừng theo ý con, một vâng ý Cha mà thôi .

 

Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mang tính siêu bạo, siêu liệt vì sẽ ảnh hưởng đến ngay mạng sống của Ngài.

 

Noi theo lời cầu nguyện của Ngài, đã có hàng hàng lớp lớp bao người  đã tìm được sự bình an, ngay cả khi đang gặp tai hoạ hoặc giông bão phũ phàng. Một trong các môn đệ xuất sắc ấy là Hồng Y Nguyễn văn Thuận, Ngài đã viết :

 

Chúa nắng, con cũng muốn.

Chúa muốn mưa, con cũng muốn.

Chúa muốn sướng, con cũng muốn.

Chúa muốn khổ, con cũng muốn

Chúa muốn cực, con cũng muốn.

Chúa và con chỉ có một ý.

Đó là bí quyết hạnh phúc của con.

 

Chúa không phải là vị thần thích nghe những lời nịnh bợ phỉnh phờ, vì Ngài luôn thấu suốt tâm can nơi sâu thẳm nhất của mỗi cõi lòng. Chúa có thể cao siêu khó hiểu nhiều điều, nhưng khi Ngài đã cho phép chúng ta được gọi Ngài là Cha, thì với tâm tình  của người con ta có thể hoàn toàn an tâm khi nhớ lời Ngài đã hứa : “Ai xin thì được, ai gõ thì sẽ mở, ai tìm thì sẽ gặp ”.

 

Tất cả những ai có đời sống tâm linh phong phú đều trải nghiệm và thấy lời hứa ấy luôn là những thực tế hết sức ấm áp. Đôi khi, trong cầu nguyện họ còn thấy một thực tế rằng, điều cầu xin dường như chẳng thấy , nhưng khi nhận được lại vượt quá ước mơ.

                                                           

 

Lạy Đấng sáng tạo của con, xin cho con một chút tâm hồn nghệ sĩ để con nhận ra rằng, không ngày sống nào giống nhau, dù ngày nào mặt trời cũng đều lên xuống có vẻ giống nhau, để từ đó, con sẽ nhận ra sự sống cùng với thời gian, là món quà không thể tuyệt vời hơn mà Chúa đã dành tặng cho con, trong đó mọi cung bậc buồn khổ sướng vui của đời sống, đang được điều động bởi một siêu nghệ sĩ nhưng lại đầy từ ái yêu thương.

 

Người siêu nghệ sĩ đầy từ ái ấy chính là Thiên Chúa và cũng là cha của con. Như thế, làm sao không cảm ơn cha mình, vì khi biết cầu nguyện bằng cách cảm ơn, cũng chính là lúc con được nếm hưởng hạnh phúc bình an vậy.

 

Amen.

 

Xuân Thái.

Mục lục

 

LÊ VŨ CẦU : GƯƠNG MẶT ĐIỂN HÌNH CỦA “NGƯỜI THỢ GIỜ THỨ 11”

Những ngày cuối đời, đang khi đối diện với cơn đau nghiệt ngã của chứng bệnh ung thư gan, Lê Vũ Cầu không còn sức để tham dự Thánh Lễ Chúa nhật như anh vẫn thường tham dự. Thế nhưng, đặc biệt Tin mừng Chúa nhật 25 thường niên vừa rồi, khi Giáo hội công bố cho mọi người Tin mừng của Chúa, tin mừng loan báo về tình thương xót của Chúa với nhưng người thợ đến làm việc cho Chúa vào giờ thứ 11, tôi chợt nhận ra một trong những khuôn mặt điển hình của nhóm thợ ấy là nghệ sĩ Lê Vũ Cầu.

Tôi may mắn được nghe anh trực tiếp nói chuyện với công chúng vào năm cuối thế kỷ 20. Ngày ấy, còn là đệ tử của Dòng Chúa Cứu Thế, anh em nói có chương trình giao lưu với nghệ sĩ Lê Vũ Cầu, vốn dĩ mến mộ anh nên tôi tham dự buổi giao lưu ấy. Buổi giao lưu thật ngắn ngủi nhưng hình ảnh của anh còn in đậm nét trong lòng tôi. Anh không ngần ngại kể lại cuộc đời đầy gian lao khốn khó của mình. Sinh ra, anh đã rơi vào phận của một kẻ mồ côi không nhà không cửa. Và hình như, cái phận không nhà không cửa ấy cứ đeo bám anh cho đến ngày anh nhắm mắt xuôi tay với đời vậy.

Bằng tấm lòng đơn thành, chân thật, anh đã kể lại cho mọi người trong khán phòng của Nhà Văn Hoá Thanh Niên hôm ấy về cuộc đời lang bạc của anh. Anh cũng không hề giấu diếm cuộc đời làm đệ tử ruột cho “nàng tiên nâu”. Anh cũng chẳng hề giấu diếm cuộc đời bon chen giật dọc đầu đường xó chợ sau những năm dài nghiệt ngã. Thế nhưng, tuyệt vời nhất, ấn tượng nhất của buổi giao lưu hôm ấy chính là sự hoán cải của anh trước những thói hư tật xấu đã đeo đuổi anh.

Không có thời gian cũng như điều kiện để tiếp xúc thân cận với anh như những người quen biết, đồng nghiệp nhưng tôi vẫn cố thu xếp để theo dõi những vai diễn mộc mạc và chân thành của anh. Những vai diễn, những lời thoại của anh đã để lại ít nhiều lòng mến, lòng trân trọng trước một đời miệt mài hy sinh vì nghệ thuật.

Bẵng đi một thời gian dài không biết tin tức gì về anh thì bỗng nhiên một hôm Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế chúng tôi tổ chức một buổi họp mặt thân mật của những người cộng tác với quý cha quý thầy trong công việc mục vụ. Buổi gặp mặt hôm ấy, chẳng hiểu cơ duyên thế nào, hình ảnh của Lê Vũ Cầu bỗng dưng sáng hẳn trong lòng tôi. Chuyện là một người cộng tác viên của quý cha quý thầy, một người làm chứng hôm ấy đã say sưa nói về Lê Vũ Cầu và sự trở lại của anh. Anh đã được Đức Mẹ ban cho ơn bình an, ban cho sự chịu đựng để đón nhận bệnh tật cũng như ban cho anh vượt qua sự đau đớn do căn bệnh nan y mang lại. Trước tình thương của nhiều người, trước lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Hằng Cứu Giúp anh đã trở lại đạo.

Anh đã đi vào lòng người với quán cơm từ thiện “Vợ thằng Đậu” tại Thủ Đức. Anh làm chuyện này không phải là để cho người đời biết đến anh nhưng anh làm điều này như là “trả lại cho đời chút ơn” mà anh đã đón nhận từ nhiều tấm lòng đã đi ngang đời anh.           Việc nhỏ nhoi ấy đã được nhiều vòng tay cộng tác, nhiều tấm lòng rộng mở để chia sẻ cho những người đói cơm, thiếu áo. Địa chỉ “Vợ thằng Đậu” như là một điểm hẹn, điểm hẹn của tình trời, tình đất và tình người.

Nhận được lòng thương xót Chúa cũng như Đức Trinh Nữ Maria, anh Cầu đã không giữ riêng cho mình và anh đã chia sẻ cho người nghèo khổ bất hạnh. Những ngày còn khoẻ và điều kiện cho phép, anh đã lặn lội từ Thủ Đức về nhà thờ Huyện Sỹ cũng như các nhà thờ khác có thể được để minh chứng cho tình yêu tuyệt dịu mà Chúa và Mẹ đã dành cho anh.

Suốt những năm tháng dài đối chọi với những cơn đau vật vã của bệnh tật, có những lần làm cho lòng anh như muốn buông xuôi tất cả, chối bỏ tất cả nhưng chẳng hiểu sao Thiên Chúa vẫn ở mãi bên anh. Cuối cùng anh đã ra đi thanh thản trong vòng tay yêu thương, trìu mến của những bạn bè thân hữu và của nhóm cầu nguyện Thánh Linh.

Ngày anh nằm xuống, tôi hơi lo khi anh không được cử hành nghi lễ an táng theo truyền thống Công giáo vì anh là người đã trở lại đạo. Mở mạng lên, đọc thấy dòng tin là trước khi đưa anh về quàn tại Ban ái hữu nghệ sĩ anh được những người thân thương đưa đến nhà thờ ở Thủ Đức để cử hành lễ an táng lòng tôi nhẹ đi và cảm thấy vui với anh.

Phải chăng Lê Vũ Cầu là một gương mặt điển hình trong nhóm thợ “giờ thứ 11” mà Chúa Giêsu nói đến trong thánh lễ Chúa nhật 21 tháng 9 vừa qua ! Phải chăng anh là người được hưởng 1 quan tiền như những người đã đến làm vườn cho Chúa vào giờ 3, 6 và 9 trong tin mừng theo Thánh Matthêu ?

Theo ý nguyện của anh là anh sẽ gửi thân xác vật hèn của anh ở phần đất trong Chùa Nghệ Sỹ ở Gò Vấp nhưng tôi tin rằng anh có một chỗ trong lòng Abraham trên Thiên Đàng rồi. Sống là gửi, thác là về. Sống : anh gửi thân phận anh ở Chùa. Thác : anh được trở về trong cung lòng người Cha giàu lòng thương xót mà bấy lâu nay anh mong gặp mặt.

Trong lòng tin, chắc chắn anh được Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, Đức Trinh Nữ Maria - Mẹ Hằng Cứu Giúp - sẽ ôm anh vào lòng và cho anh hưởng nhan Thánh Chúa như lời Chúa đã nói với những người đến làm vườn cho Chúa muộn như anh. Và ngày anh ra đi, ngày anh rời bỏ cõi tạm này cũng là ngày mà Nước Trời rất vui vì đón nhận một người con như anh là suốt cuộc đời hầu như lang bạc nhưng cuối đời đã quay đầu trở về cùng Chúa.

Sống trên đời này, không phải là thành công về tiền bạc, không phải thành công về địa vị, không phải thành công về danh vọng. Sống trên đời này thành công hay không thành công đó là ở chỗ được cứu hay không được cứu mà thôi ! Vậy, anh Cầu mến ! Anh đã thành công ! Anh đã thành công vì anh đã được Thiên Chúa cho anh hưởng nhan Thánh Chúa như lời Chúa hứa !

Anh còn thành công nữa là khi anh nhắm mắt chia tay với đời, với cái cõi tạm này anh thanh thản và anh mỉm cười còn chúng tôi, những người ở lại lại rơi đôi dòng lệ khóc cho kẻ đã ra đi. Những gì mà anh sống, những gì mà anh quyết định không phải ai cũng làm được đâu anh Cầu ơi ! Anh đã sống một cuộc đời phiêu bạt nhưng chuyện quan trọng nhất là cuối đời anh đã quyết định theo Chúa. Đó chính là chung cuộc thành công của đời anh.         

Giờ này, anh là người hạnh phúc nhất vì anh đã thư thái bình an trong tay Chúa. Anh ra đi trước tôi, xin anh hiệp lời cầu nguyện cho tôi để một ngày kia tôi cũng được như anh là được hưởng nhan Thánh Chúa trên Nước Trời.

Lm. Anmai, C.Ss.R.

Mục lục

 

AI ĐÃ THI HÀNH Ý MUỐN CỦA NGƯỜI CHA?

Có hai phụ nữ đến gặp vị ẩn sĩ. Một người tự nhận mình tội lỗi nặng nề vì đã phản bội chồng, trái lại, người phụ nữ kia lại rất yên tâm vì không thấy mình phạm một tội nặng nào. 

Sau khi nghe hai chị kể lể tâm trạng, vị ẩn sĩ nói với người thứ nhất: “Hỡi nữ tì của Thiên Chúa, con hãy ra ngoài tìm một tảng đá nặng và mang về đây cho ta”; và với người thứ hai: “Phần con không phạm tội gì nặng, con hãy mang về một túi những hòn đá nhỏ thôi”.

Hai bà vâng lời ra đi, một lát sau họ trở lại. Người đầu khệ nệ bê một tảng đá nặng, còn người kia xách một túi những hòn đá nhỏ. Bấy giờ, vị ẩn sĩ mới bảo họ hãy đem tảng đá cũng như những hòn đá nhỏ đặt trở lại đúng chỗ mình đã thấy lúc nãy, rồi trở lại gặp ngài.

Chị thứ nhất làm việc đó một cách dễ dàng , còn chị kia thì làm sao nhớ nổi chỗ của từng hòn đá.

Cả hai trở về kể lại cho vị ẩn sĩ nghe công việc của mình.

Ông nói với người thứ nhất: “Con đặt được tảng đá vào chỗ cũ dễ dàng vì con biết rõ nó ở đâu”; và nói với người kia: “Cái khó của con là không nhận ra được chỗ của chúng”.

Lòng thống hối là điểm bắt đầu cho việc đón nhận Tin Mừng.

Sứ vụ của Đức Kitô đã được thánh Gioan Tẩy giả chuẩn bị bằng việc kêu gọi lòng thống hối: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Thống hối cũng là câu nói đầu tiên của Đức Kitô khi bắt đầu rao giảng Tin Mừng (Mt 4,17). Vì thế, cái khó cho lòng thống hối cũng là cái khó cho việc đón nhận Tin Mừng.

Đức Kitô đã cho thấy cái khó đó trong dụ ngôn hai anh em cùng nghe lệnh cha bảo họ đi làm vườn nho, một người nói không nhưng sau lại hối hận và đi làm, người kia nói vâng rồi chẳng làm gì cả.

Điểm khác biệt căn bản giữa hai thái độ nằm trong câu hỏi Đức Kitô đặt vào cuối câu truyện: “Ai đã thi hành ý muốn của người cha?”.

Lòng thống hối Thiên Chúa mong muốn không phải là than khóc về tội mình đã phạm mà là một sự đổi mới toàn diện và triệt để trong đời sống hầu nên một tạo vật mới theo gương mẫu Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Nhờ đó mà sự sống thần linh được đưa vào đời sống con người: “anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu”.

Tâm tình đó có nền tảng là sự tự hạ và vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha trên trời: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,5.8),  

Nghe vị ẩn sĩ nói, người phụ nữ phạm tội ngoại tình biết ngay được việc phải làm còn người kia thì không. Cũng thế, nghe Gioan rao giảng: “anh em hãy sám hối”, những người thu thuế và các cô gái điếm đã tin theo trong khi các thượng tế và kỳ mục lại không tin vì chẳng thấy mình có gì phải sám hối.

Khi liên kết lời trách họ không tin ông Gioan Tẩy giả với câu chuyện hai anh em trong dụ ngôn, Đức Kitô đã gián tiếp coi họ là người thưa vâng mà không đi làm, những người yên tâm với các giờ kinh và những khoản đóng góp theo luật định, và coi mình là người đạo đức vì đã là thầy dạy cho mọi người biết về những việc đạo đức.

Trong khi đó, tâm tình sám hối dẫn vào Tin Mừng đòi hỏi một cuộc đổi mới cả cuộc sống, không ngần ngại, không lưỡng lự, như ông thu thuế Mátthêu đã làm: “Khi ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mátthêu đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!”. Ông đứng dậy đi theo Người” (Mt 9,9)

George Washington, tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, từ khi còn bé đã tỏ ra là một người phục thiện và yêu sự thanh liêm. Một hôm ra vườn làm cỏ, cậu đã vô tình chặt đứt mấy cây anh đào mẹ cậu rất yêu thích. Thấy mấy cây anh đào bị chặt, cha cậu hỏi:

-           Con có biết ai đã chặt mấy cây anh đào không?

-           Con đã lỡ tay chặt mấy cây anh đào đó. Xin cha cứ phạt con đi.

-           Con đã làm một điều lỗi, nhưng con đã chữa được lỗi lầm đó khi con dám nhận lỗi, người cha nói.

Thiên Chúa là Đấng nghiêm khắc, nhưng cũng rất nhân từ. “Bạn hãy xem Thiên Chúa nhân từ và nghiêm khắc thế nào: Người nghiêm khắc với những kẻ sa ngã, nhưng nhân từ với bạn, cứ một mực cậy nhờ vào lòng nhân từ đó” (Rm 11,22).

Bởi tình yêu mà Chúa sẵn sàng ôm vào lòng mọi tội nhân thống hối, nhưng cửa Nước Trời chỉ được mở ra cho những tâm hồn nào sẵn lòng bỏ ý riêng mà tìm ý Thiên Chúa: “chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21)

Tội lỗi đánh mất sự sống siêu nhiên Chúa ban tặng, nhưng lòng thống hối có thể phục hồi tất cả, và còn hơn thế nữa, như tác giả Gương Chúa Giêsu đã viết: “Những ai tự nhận mình hèn yếu sẽ được Cha nâng lên cao ngang hàng Thiên Chúa” (Imit. III, LVII, 17).     

Lm. HK

Mục lục

 

 

 

NGÔI MỘ CỦA THÁNH PHAOLÔ

 

Các truyền thống của Giáo hội Rôma đều cho rằng Thánh Phaolô bị chém đầu ở ngoại thành Rôma khoảng năm 67. Sau đó, ngài được đem chôn cất tại một nghĩa trang công cộng của dân thành Rôma. Vị trí ngôi mộ của ngài chính là dưới bàn thờ chính của đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại Thành hiện nay.

 

Theo truyền thuyết, ngài được một phụ nữ tên là Lucina chôn cất. Đây là một ngôi mộ của người nghèo với một quan tài đá thông thường của dân Rôma thời đó; bên trên có bia mộ bằng đá cẩm thạch loại xấu. Ngôi mộ của ngài chôn chung lẫn lộn với đủ loại người khác trong một nghĩa trang lộ thiên. (1) (sub divos) được sử dụng từ thế ký 1 TCN đến thế kỷ III SCN.Nhân dịp trùng tu đại thánh đường năm 1823, các nhà khảo cổ phỏng đoán có khoảng 5000 ngôi mộ bện dưới thánh đường hiện nay.

 

Trong tác phẩm Lịch sử Hội Thánh (Historia Ecclesiae), vị giám mục sử gia Eusebio thành Cesarea (265 -340) có trích lại một đoạn bức thư của linh mục Gaio, dưới thời Giáo hoàng Zefirino ( 199-217). Linh mục Gaio cho biết có hai  mái vòm xây che trên mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, ở đồi Vaticanô và trên đường Ostia. “ Trong một bức thư gởi Proclus, lãnh tụ của nhóm Phrygian, ông (linh mục Gaio) nói như sau về nơi có hài cốt của các vị Tông đồ ( Phêrô và Phaolô) : nhưng tôi có thể chỉ ra tropaia ( 2)( mái che trên mộ) của các Tông đồ vì nếu ông đi đến đồi Vaticanô hay đường Ostia, ông sẽ thấy tropaia của những vị đã thiết lập Giáo hội này”.

 

Ngay từ sau khi Thánh Phaolô tử đạo, ngoài Kitô hữu đã có thói quen hành hương đến phần mộ của ngài, nhất là các linh mục khi nhận thừa tác vụ. Họ đến trước mộ Phêrô và Phaolô để tuyên xưng (confessio)” tôi tin như Phêrô và Phaolô đã tin”. Sang thế kỷ thứ II, một người hảo tâm nào đó đã làm mái che đơn sơ trên mộ vị Tông đồ. Vị trí này dân dần được giáo đoàn Rôma gọi là Confessio ; ngày nay mái che bên trên và bàn thờ chính của đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại Thành vẫn được gọi là Confessio.. Theo Giáo luật, các vị giám mục năm năm một lần phải trở về Rôma tuyên xưng đức tin ( confession) trên bàn thờ này ( GL đ. 400).

 

Ngày 29.5 năm 258 (3), dưới thời Hoàng đế Valeriano ( 253- 260), quan tài của hai Thánh Phêrô và Phaolô  được chuyển đến hang toại đạo Sebastiano “để tránh những người xúc phạm”. Việc di đời này diễn ra vào ban đêm và chỉ có một số ít hàng giáo phẩm cao cấp được biết; đa số tín hữu Rôma vẫn tưởng là phần mộ hai vị còn nguyên chỗ cũ.

 

Khoảng một thế kỷ sau, Đức Giáo hoàng Sylvestro ( 314-335) cho dời quan tài Thánh Phaolô trở lại chỗ cũ. Có lẽ  cùng dịp này, phần đầu của Thánh Phaolô và Thánh Phêrô được đem cất chung bên trên bàn thờ chính của đại Thánh đường Laterana cho đến ngày nay. Nhân dịp này, Hoàng đế  Constantino (306- 337) xây một nhà thờ nhỏ trên mộ Thánh  Phaolô. Ngôi nhà thờ đầu tiên này chỉ còn lại một vòm cung (abside) gần bàn thờ chính hiện nay. Sau đợt khai quật 2006, người hành hương có thể nhìn thấy một phần vòm cung này.

 

Ngôi nhà thờ này quá nhỏ so với hai đại Thánh đường Laterana và Vatican. Đến năm 386, các vị Giáo Hoàng và Hoàng đế Theodosius (379- 395) bắt đầu xây dựng một đại thánh đường và khánh thành năm 390. Phần mộ Thánh Phaolô vẫn được xác định là dưới bàn thờ chính ( 4).

 

Nhân dịp Năm Thánh 2000, người hành hương than phiền  là không được thấy phần mộ của Thánh Phaolô (5). Giáo hội đã cho tiến hành khai quật phần mộ của thánh nhân, dưới quyền lãnh đạo của Tổng giám mục Francesco Gioia với tư cách là thượng linh mục (archpriest) Giám quản đại thánh đường. Đợt khai quật thứ hai năm 2002, các chuyên gia tiến hành ngay dưới bàn thờ chính của đại thánh đường. Họ đào lên hai tấm cẩm thạch ; một tấm có khắc chữ Paulo Apostolo Mart và tìm thấy một quan tài bằng đá. Như vậy, các chi tiết đều đúng như tài liệu lịch sử khi chuyển quan tài của Thánh Phaolô thời Hoàng đế Thecdosius. Chỉ khác là đại thánh đường hiện nay khác hướng với nhà thờ đầu tiên thời Constantino ; nên quan tài nằm lệch so với bàn thờ chính.

 

Trong lòng nhà thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành. Phần mái che là bàn thờ chính bên trên phần mộ Thánh Phaolô.

 

Quan tài đá dài 2, 25m, rộng 1,25m , cao 0, 97. Quan tài đá này chắc chắn đã có ở đây từ thời Hoàng đế Theodosius năm 390, chúng ta không biết có đúng là quan tài chôn Thánh Phaolô từ năm 67 hay không. Bên trên quan tài là bàn thờ chính Confessione (altare della Confessione) hay còn gọi là bàn thờ giáo hoàng  (alltare papale). Từ sau dịp khai quật này, dưới bàn thờ chính được chừa lại một lối đi, để qua một cửa song sắt, các tín hữu có thể nhìn thấy phần mộ của Thánh Phaolô.

 

Lối vào mộ Thánh Phaolô dưới gầm bàn thờ chính của đại thánh đường Phaolô Ngoại Thành- Rôma. Trực diện là một phần của quan tài đá.

 

Tấm đá cẩm thạch loại xấu trên mộ ngài có khắc chữ lớn và cẩu thả hàng chữ Paulo Apostolo Mart (Phaolô Tông đồ Tử đạo, lẽ ra còn phải khắc đủ Martyri, nhưng hết chỗ). Theo truyền thống đây là tấm bia mộ của Thánh Phaolô ngay từ đầu. Giả thuyết này hợp lý, và giáo đoàn Rôma từ cuối thế kỷ I đã đông đảo và có những người rất giàu có.(Giáo hoàng thứ ba Đức Clêmentê vốn thuộc hàng đại gia giàu nhất Rôma ; biệt thự riêng của ngài ở “khu đất vàng”  số một của trung tâm Rôma), không lẽ họ vẫn làm cho Thánh Phaolô môt tấm bia mộ sơ sài như thế. Hơn nữa, Giáo đoàn Rôma chủ trương bảo tồn vẹn di tích đầu ; khi xây dựng nhà thờ đầu tiên trên mộ Thánh Phêrô ở đồi Vaticanô vào thế kỷ IV, họ đòi phải giữ nguyên các phần đã có trước đó.

 

Tấm đá này bị đục bể 03 lỗ trống, có lẽ vì thói quen người tín hữu muốn thò tay đặt tấm khăn của mình chạm vào di tích của thánh nhân. Có giả thuyết cho rằng lỗ đục tròn và không làm mất chữ Paulo, là do một tập tục cổ Rôma, quen  bỏ hương vào quan tài qua một ống dẫn. Dù để tín hữu  chạm vào di tích hay để hương, tấm đá có ba lỗ này đã có từ lâu từ trước khi tái thiết nhà thờ năm 386. Hiện nay, phòng trưng bày của nhà thờ Thánh Phalô Ngoại Thành  có đặt một bản sao của tấm đá này.

 

Khoảng 1,37 m dưới bàn thờ chính là một tấm đá cẩm thạch (2, 12m x 1, 27m) gồm nhiều miếngghép lại, có mang hàng chữ  PAULO APOSTOLO MART…

 

Tấm bia mộ này của Thánh Phaolô có ba lỗ: một hình tròn  và hai hình vuông (6).

 

Lm. Bùi Thái Sơn

Mục lục

 

Những ghi chú :

 

(1)Đầu thế kỷ XXI, chính phủ Italia có nhiều dự án khảo cổ khai quật một số điểm của nghĩa trang cổ bên ngoài khuôn viên của đại thánh đường.

 

(2) thuật ngự Latinh là cella memoriae hay tropaeum ; có lẽ chủ yếu để che mưa nắng cho người hành hương hơn là có ý làm theo kiểu một phần mộ sang trọng và vinh dự. Tropaeum nguyên nghĩa là chiến lợi phẩm, kiến trúc kỷ niệm chiến thắng.

 

(3)Lễ kính hai vị Tông đồ hiện nay là vào ngày 29.6;  ngày này trùng với ngày dời mộ hai vị, nhưng chúng ta không biết có thực sự là ngày tử đạo của hai vị hay không.

 

(4)Đại thánh đường này còn nguyên vẹn, dù sau này có xây dựng thêm, cho đến khi bị cháy được đại tu các bức tường năm 1823.

 

(5) Như thấy phần mộ Thánh Phêrô ở đại thánh đường Vaticana

(6) Có người nghĩ xấu là do các tu sĩ coi sóc nhà thờ đục ra, để “làm cớ” giúp các bà đạo đức đem khăn tay chạm vào quan tài Thánh Tông đồ. Thực ra từ năm 390, tấm bia mộ này đã nằm sâu dưới bàn thờ chính và chỉ mới được khai quật lên.

 

 

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và tư tưởng Tin lành
 theo cụ Jean Guitton


 

(Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chắc chắn là chưa đọc những tác phẩm của Tin lành, cụ Jean Guitton viết rõ ra là thệ phản. Nhưng thánh nhân đã có những suy nghĩ về Đức Maria mà người Tin lành chấp nhận được trong khi đó bao Đấng khác nói về Đức Mẹ gây khó chịu cho anh em Tin lành).


 Tư tưởng của Đức Maria chiếm một địa vị trong tư tưởng Kitô giáo phải được kính trọng với một lưu tâm lớn. Đức Maria không phải là trung tâm vì chỉ có Chúa Giêsu là trung tâm duy nhất, nhưng Đức Maria có sáng kiến, có đời sống đứng ở một vị thế lớn lao.


 Trong phạm vi cứu độ, tâm hồn người Công giáo vui mừng vì mức hiểu biết Mẹ của Đấng Cứu Thế tăng thêm và vinh quang Mẹ dần dần càng rạng rỡ, nếu đồng thời người Công giáo để ý tới tính phổ biến và tính tông truyền thì hay biết mấy. Nhưng có những tâm tình lại không để ý tới tiến triển hiểu biết về Đức Maria làm cho đạo Công giáo xa những giáo phái đã tách khỏi Công giáo mà họ còn giữ được di sản Kitô giáo về lòng tôn kính Đức Maria và những tín điều liên can tới Đức Trinh Nữ Maria y nguyên lúc chia rẽ, sự chia rẽ này như là một sự suy sụp kho tàng Đức Tin.


 Tâm trí người Công giáo không thống nhất với nhau khi đối diện với một mệnh đề phát triển tầm hiểu biết về Đức Trinh Nữ Maria. Có vui nhưng mà cũng có lo lắng vì thấy rằng phát triển hiểu biết này như đưa ra ánh sáng từ tối tăm làm tăng thêm chiều kích của vực thẳm. Thí dụ : Đức Giáo Hoàng Pio XII khi âm thầm suy nghĩ việc định tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời đã có sự do dự vì một bên muốn tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria và bên kia là sợ đặt một chướng ngại vật trên đường hiệp nhất Kitô giáo.


 “Xuyên qua các mặt, bỏ đi những điều phụ tùy, linh đạo của thánh Têrêxa Lisieux ít gây hoang mang đối với Tin lành hơn là các linh đạo khác. Việc phụng thờ Ngôi Cha Thiên Chúa, cách hiểu Tin Mừng, khoa thần bí bất vụ lợi của thánh nữ, ơn sủng thuần túy, sự từ bỏ công nghiệp cá nhân, vượt qua hàng rào ngôn ngữ để giữ lấy tinh thần bản văn, phê bình rất táo bạo những gì có thể lệch đường tu đức Công giáo, lời kêu gọi của thánh nữ kêu gọi các tâm hồn ở bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào kể cả sống ngoài bậc tu trì và lời khấn, đó là những điều chứng minh được biết bao những giá trị tinh thần ám ảnh những nhà cải cách bậc nhất còn sống tu đức Công giáo. Cách thức thánh nữ đề cập tới mầu nhiệm Đức Maria, hình ảnh mà thánh nữ tạo ra mẹ Đức Giêsu và tâm hồn của Ngài hình như rất được những người Tin lành chấp nhận hơn là những công trình thần học hoàn chỉnh và lớn lao do những suy tư sâu xa và khoa học về những luận đề rất đơn giản. Các điều người Tin lành vất vả theo Têrêxa chính là lòng sùng kính của thánh nữ tạo ra những tương quan trong tâm hồn thánh nữ với con người Đức Maria cụ thể trong khi những tương quan này các nhà tần học đặt ra học thuyết suy nghĩ về Đức Maria, vai trò hiện tại trong việc phân phát các ơn của Đức Maria và trong đời sống nội tâm, những điều này người Tin lành không hiểu được.


 Có thể phân tích lòng sùng kính Đức Maria trong đời sống nội tâm của thánh Têrêxa Lisieux sẽ hiểu rõ thánh nữ hoặc ít ra nhận ra được nơi thánh nữ còn nguyên vẹn vì thánh nữ dành một chỗ lớn và sâu kín, tương quan rất trong sáng, rất trực tiếp và rất đơn giản của tâm hồn mình cho Thiên Chúa, chính Thiên Chúa là đối tượng chân thật duy nhất đời sống tu trì của linh hồn người Công giáo” (Tạp chí Thomiste, 1952, III).


 Chính ở điểm này, linh đạo của thánh Têrêxa liên quan tới Đức Nữ Đồng Trinh Maria có thể giúp ích cho chúng ta suy nghĩ và phổ biến. Vì tinh thần của Dòng Cát Minh trong đó Chị thánh tươi nở làm tiêu tan từ gốc rễ tất cả những cảm tình quá đáng, tất cả những hình thức thái quá. Người ta có thể nói một cách tổng quát (điều này thấy rõ trong Grignion de Montfort) cố gắng thuộc tính tinh thần là một cố gắng của sự đơn sơ, cũng như cố gắng của thi thơ là một cố gắng, một sự trong sáng lớn, cố gắng của khoa học đạt tới một sự điều hợp lớn hơn. Một nhà đạo đức phát minh ra một cách mà thế kỷ 17 gọi là một “phương tiện ngắn gọn”, một “quyển sách giản yếu”. Sách Gương Phúc của Thomas a Kempis là một quyển sách được đơn giản hóa liên quan tới lòng sùng kính quá nặng nề của giới nhà tu. Quyển sách Nhập môn vào đời sống đạo đức cũng đơn giản như thế. Thần học hoặc luân lý, hoặc luật học nhất thiết là trở nên rắc rối, trở nên phức tạp. Việc làm của tinh thần lại có khuynh hướng đơn giản hóa. Chính khuynh hướng này cho phép các tâm hồn tìm gặp sự đơn giản của Nguồn suối, của Tin Mừng, mặc dầu sự tiến bộ đòi thay đổi và chồng chất lên theo thời gian.


 Nói tóm lại (dầu không phải duy nhất thế), người ta yêu cầu đơn sơ nầy nơi lòng sùng kính riêng tư và trong tất cả lòng sùng kính Đức Mẹ. Đức Trinh Nữ Maria xuất hiện như không có phức tạp, vậy là đơn sơ và dễ dàng ngay cả trong trường hợp khó khăn, phải giải thoát khỏi huyền thoại như những người duy tân nói.


 Ở đây, kẻ viết tập này xin phép được trích ra đây những câu nói ngắn gọn về Đức Mẹ của Chị thánh nhưng đượm những suy nghĩ sâu xa mà đơn giản :


 Ôi ! Con yêu mến Đức Mẹ lắm ! Giả như con là linh mục, con sẽ giảng về Mẹ dịu dàng lắm. Người ta cứ nói Đức Mẹ rất cao sang không thể lui tới được. Phải chi cứ giảng rằng : Đức Mẹ bình dân rất dễ bắt chước. Người là Mẹ hơn là Nữ Vương. Đã có lần tôi nghe nói sự sáng láng của Đức Mẹ che lấp các thánh như mặt trời mọc lên át hết các vì sao trên trời. Lạy Chúa ! Sao lại kỳ dị thế được ? Người Mẹ lại nhẫn tâm lấn át sự vẻ vang của con cái mình ư ? Tôi không thể nghĩ thể ấy, tôi tin thật rằng Đức Mẹ sẽ ban thêm sự sáng láng cho những con cái được về thiên đàng. Lạy Mẹ đồng trinh ! Cuộc đời của Mẹ giản dị, đơn sơ biết bao (Truyện Một tâm hồn, chương 12, Kim Thiều dịch).


 “Ôi Mẹ Maria, nếu con là Nữ Vương thiên quốc và nếu mẹ là Têrêxa thì con muốn con là Têrêxa để Mẹ là Nữ Vương Thiên quốc” (Pri 21).


 Đời sống của thánh Têrêxa cũng như đời sống của Đức Mẹ diễn ra trong những điều kiện bình thường, trong những hình thức dễ dàng và không sáng chói. Chị thánh, đúng như phần chúng tôi ước đoán, tính tình Chị thánh giống như Đức Trinh Nữ Maria, tức là tính chất và bản tính riêng của Chị thánh giống Đức Trinh Nữ Maria hơn là giống tính chất và bản tính riêng của thánh Têrêxa Avila. Đạt đến mức độ hiếm có trong hàng ngũ các thánh, thánh Têrêxa có tính tình giống Đức Maria như chúng ta đã biết tính tình Đức Maria nhờ thánh sử Luca. Hai đấng này có một cái gì gọi là trực tiếp, rõ ràng, vui tươi, không quanh co ngoắt ngoéo, không phức tạp rối rắm : đó là khôn ngoan do tập trung ở mức độ cao nhất đôi khi mừng quýnh lên rồi được thu lại rất nhanh trong sự yên lặng, yêu mến nghe theo những dấu hiệu mà không phải tìm kiếm.


 Tôi tóm lại cảm nghĩ của tôi thế này : nếu người ta tìm nơi thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu một con đường của Đức Mẹ đã đi thì người ta không tìm thấy được ít hoặc ít ra phải vất vả quá nhưng nếu người ta tìm nơi nữ tu Têrêxa đời sống của Đức Maria thì người ta tìm ra không khó khăn gì.


 Chúng tôi trở lại điểm này. Nếu thánh Têrêxa không thuộc về Đức Maria bằng những tư tưởng trong học thuyết của mình thì thánh Têrêxa cũng thuộc Đức Maria bằng sự hiện hữu sâu xa của mình. Thánh nữ có thể cho chúng ta một ý tưởng rất gần gũi con người Đức Maria lịch sử. Không muốn bắt chước Đức Trinh Nữ bằng một cố gắng riêng biệt, thánh Têrêxa giống Đức Trinh Nữ, như được thêm vào, sự tăng thêm này là một đặc ân của tình yêu trong sáng thuần túy (xin xem nguyên bài trong Jean Guitton, Le génie de Thérèse de Lisieux, Edt Emmanuel, Paris 1995, Thérèse et la pensée protestante, trang 121-126).

Lm FX Nguyễn Hùng Oánh

Mục lục

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

NGHỆ THUẬT LÀM ÔNG NỘI

 

Văn hào Victor Hugo của nước Pháp (1802- 1885) về già đã viết tập thơ : “Nghệ thuật làm ông (nội ngoại)”. Ai cũng thích hình ảnh nhà thơ bát tuần râu tóc bạc phơ, tươi cười bên lũ cháu nội, ngoại tíu tít, một hình ảnh đẹp mà người đàn ông nào cũng mơ ước. Vậy, thưa ông nội/ngoại , ông là ai ?

 

Hình như trong văn chương, hình ảnh người ông ( nội, ngọai)  hơi mờ nhạt, so với hình ảnh các bà ( nội, ngoại). Chắc các tác giả muốn nhắn nhủ người đọc là : “Thôi cứ đọc về bà rồi suy ra ông, cũng được chứ sao”. Và dường như các cụ ông cũng hài lòng với địa vị khiêm tốn người ta dành cho mình thì phải.

 

Có đúng thế không ? Trong lịch sử loài người hình ảnh vị tổ tiên uy nghi râu tóc bạc phơ đã trở thành biểu tượng của bộ lạc. Đối với những đứa cháu nội ngoại ngày nay, ông nội ngoại vẫn giữ một địa vị quan trọng. Cụ Ân, 64 tuổi, chuyên viên kế toán chưa về hưu, rất tự hào về địa vị làm ông của mình. Cụ nói : “Ưu thế của người ông là được trọng nể như cha, mà không phải dùng đến quyền uy như cha. Thành ra trẻ con chỉ mến mà không sợ. Tôi không phải rèn cặp các cháu, mà chỉ từ tốn hướng dẫn các cháu”.  Cụ An  có hai cô con gái, năm nay đã trên dưới bốn mươi và ba cháu ngoại. Ông kể : “Ngày xưa tôi nghiêm khắc với hai con tôi bao nhiêu, ngày nay tôi lại khoan dung với các cháu tôi bấy nhiêu”. Có lúc ông An đã như mềm yếu, xé rào trong một vài ngăn cấm của mẹ chúng. Ông tự bào chữ : “Những xé rào nho nhỏ ấy mà. Như có lúc tôi dúi cho mấy đứa vài cục kẹo. Lái xe đưa các cháu đi chơi trên đường rừng, tôi hay lái quặt quẹo làm chúng thích thú cười như nắc nẻ”. Ông kết luận : “Ông ngoại thì có thể làm thế, vì lâu lâu mới gặp các cháu một lần, coi như những ngoại lệ. Mối quan hệ ông cháu có vẻ thoải mái hơn, bớt căng thẳng hơn mối quan hệ cha – con”.

 

Còn cụ Giảng lại có chủ trương hơi khác. Cụ có sáu người con, mười lăm cháu nội ngoại, đứa lớn nhất đã hai mươi, đứa nhỏ nhất mới có ba tuổi. Cụ cho biết : “Nói nào ngay, trong việc dạy dỗ các cháu, tôi có mềm dẻo, dễ dãi hơn là đối với các con tôi hồi xưa. Nhưng tôi không chịu để các con tôi quá dễ dãi với con cái chúng. Chẳng hạn, tôi không chịu để các cháu cởi trần ngồi vào bàn ăn, hay để các cháu có lời lẽ cử chỉ khiếm nhã, hỗn hào với cha mẹ chúng. Tôi thường khuyên bảo uốn nắn cháu…”

 

Vai trò của ông nội là gì ?

 

Trái lại, cụ Xuân lại “rửa tay gác kiếm”  không còn muốn dính vào chuyện giáo dục các cháu. Là vì cụ thấy cung cách giáo dục ngày nay quá khác biệt so với thời cụ còn nhỏ, do đó cụ có vẻ hoang mang, không biết xử sự sao cho phải. Cụ vốn là một nông dân, năm nay đã vào tuổi “thất thập cổ lại hi” rồi. đã có bốn con, bảy cháu mà cụ vẫn sống chung với cha mẹ mình trong cảnh  “tứ đại đồng đường” (bốn thế hệ trong một nhà) các anh em cụ sống tại các trang trại gần đó, thành ra đi đến đâu cũng thấy trong gia tộc họ mạc cả. Cô Duyên, con gái cụ Xuân cho biết : “Ông nội tôi nuôi nấng tất cả con cháu. Cụ là một bậc tổ tông quyền uy, sắp đặt mọi việc, kể cả việc hôn nhân của tôi và nghề nghiệp cho vợ chồng tôi. Tôi lệ thuộc ông nội hơn cả lệ thuộc cha mẹ. Có lần tức mình tôi nói với bố : “Đến bây giờ mà ba vẫn cứ phải lệ thuộc ông, kể cả trong việc nuôi dạy chúng con!”Nghe vậy, cha tôi ngớ ra, chả biết nói sao. Nhưng rồi sau đó, mặc dầu tuổi đã cao, cha tôi cũng đã dọn nhà đưa vợ con sang sinh sống tại một làng khác. Lúc đó cha tôi mới có dịp gần gũi chăm sóc các cháu ngoại. Vừa rồi chúng tôi có tổ chức một buổi họp mặt bốn thế hệ vui quá là vui…Cha mẹ tôi, vốn khổ sở vì lệ thuộc ông nội, nên rất tôn trọng sự độc lập của chúng tôi”.

 

Theo cô Duyên, người ông (nội, ngoại) ngày nay cũng có nhiều nhiệm vụ lắm. Ông phải gần gũi các cháu, nhưng không được can thiệp quá sâu vào việc giáo dục chúng. Ông phải tỏ ra hiểu biết và được các cháu kính mến. Ông phải luôn lắng nghe và có những  lời khuyên thích hợp, nhưng lại tuyệt đối không can thiệp vào chuyện gia đình con cái. Ông có vai trò trung gian hòa giải  giữa các mối bất hòa dị diệt, chẳng hạn giữa mẹ chồng  nàng dâu. Theo bà Marie F. Fuchs, hiệu trưởng trường dành cho ông bà ( nội, ngoại) thì vai trỏ ông còn là gợi lên trong gia tộc những  cuộc tranh luận bổ ích về , chẳng hạn, ý nghĩa cuộc sống, cuộc hẹn hò đầu tiên của đôi trai gái, việc cầu nguyện… Bà Fuchs kể : “ Lễ giáng sinh  vừa rồi, các cháu tôi viết tặng ông bà  một bài hát nho nhỏ trong đó các cháu có nhắc đến  những tật xấu nho nhỏ của ông bà. Thật là cảm động”.

 

Theo bà Fuchs, ngày nay có hẳn một mô hình người ông mới. Từ khoảng hơn chục năm nay, các cụ chú trọng nhiều đến mặt tình cảm. Ngày xưa, các cụ cho việc tre già măng mọc là qui luật tự nhiên, sự truyền thừa, các thế hệ có khác gì sự xoay vần của trời đất, ngày nay các cụ tỏ ra tình cảm hơn, nhạy cảm hơn với  sự sống non trẻ đang lên  nơi các cháu và vô cùng quí trọng sự sống ấy.

 

Ông ông cháu đề huề

 

Cụ Văn quý hối tiếc : “ Hồi đó tôi đi làm suốt ngày,  không có thì giờ sinh hoạt với con cái, mọi sự phó mặc cho bà xã. Bây giờ có mười bốn đứa cháu nội ngoại, tôi có thì giờ gần gũi vui đùa với lũ nhóc. Tôi thích  cuộc sống  này lắm !”  - Còn cụ Nguyễn Phổ  mê bong đá cho cháu. Cụ kể : “ Hễ  cứ có trận  nào hay, cháu   nó lại  kêu ông ngoại, thế là ông cháu lại đi xem. Cháu  thuộc  tên các cầu thủ, thành phần của mỗi đội bong, khiến các bạn tôi khen lắm, bảo : “ Rõ  ông nào cháu ấy nhá.” Ông cháu cùng một sở thích nên rất ăn ý.

 

Cụ Văn An, ông nội của ba cháu gái kể : “ Ông cháu hay có những trò chơi bổ ích  và thường bịa  ra những tiếng  lóng chỉ có ông cháu hiểu với nhau”Ông vừa tươi cười vừa thích thú kể : “ Con cháu Liên  nhà  tôi  bốn tuổi hay khóc nhè lúc nào bị ông mắng là “ cái chai nước”  thì xấu hổ lắm.

 

Cụ bà An cũng khen ông : Hồi đó có bao giờ  ông ấy

ẫm đứa con nào đâu ! Bây giờ  ông ấy ẫm các cháu nhỏ vô tư “ Bà còn khoe : Ông ấy kiên nhẫn chiều chuộng các cháu hơn tôi nhiều !”Còn ông An  thì kể : “ Tôi hay đưa chúng nó đi chơi sở thú. Tôi kể cho các cháu nghe về con voi, con đà điểu, con hươu cao cổ, chúng thích lắm, háo hức đòi coi. Nhưng đến sở thú, chúng lại mải mê ngắm đàn vịt bơi dưới ao hồ ! suốt buổi chiều chủ nhật hôm ấy, ông cháu ứ vui chơi trong vườn thú quên cả đường về”.

 

Ông bà là chiếc cầu nối

 

 

Khi các cháu có vấn đề với bố mẹ, ông bà thường là nhịp cầu nối, tạo sự thông cảm. Là vì ông bà không phải dung đến quyền uy, chỉ dùng tình cảm dẫn dụ các cháu.

 

Ông bà, ngoài ra, còn là người khai tâm cho các cháu những hiểu biết về thế giới bao la kỳ diệu này. Ông còn vỡ lòng cho các cháu về tình yêu thiên nhiên trong các cuộc đi chơi dã ngoại, thú vui câu cá, chăm sóc cây kiểng, thậm chí long yêu văn thơ… Ông Văn An kể : “ Cho đến bây giờ  đã là ông nội của mấy đứa cháu mà tôi vẫn không quên ông nội tôi, râu bạc tóc bạc, nụ cười thật hiền, dẫn tôi đến công viên thành phố, ngón tay vàng khói thuốc chỉ cho tôi từg npho tượng đá trắng, lá vàng rơi từng chiếc trê đôi vai.Ông cũng hay dẫn tôi ra bến tàu, xem những chiếc tàu hung vĩ, từng vượt sóng đại dương vừa cập bến, đang phì phà thở khói mệt nhọc”.

 

Cụ An có lần đã hỏi các cụ đ6òng tuế : “Tôi đố các cụ thế nào là một ông ngoại tốt ? Đơn giản lắm. Hễ thấy các cháu thích đến nhà mình chơi đùa, thế là mình là ông nội/ ngoại tốt đấy ! Được làm ông bà là một phúc lớn vì có dịp sống lại tuổi thơ với các cháu mình”.

 

Huỳnh Hay

Mục lục

 

 

Viêm xoang ở trẻ em

 

Đó là tình trạng viêm niêm mạc các xoang cạnh mũi, được coi như một biến chứng của viêm đường hô hấp trên. Căn bệnh này hay gặp nhất ở trẻ dưới 6 tuổi. Nhiều thống kê cho thấy, số trẻ bị viêm xoang đang ngày càng tăng.


Yếu tố nguy cơ của bệnh bao gồm suy giảm miễn dịch, rối loạn chức năng vận chuyển lông nhầy, dị ứng với môi trường xung quanh, trào ngược dạ dày thực quản, bất thường về cấu trúc giải phẫu bệnh, dị vật mũi, VA...


Viêm xoang cấp xảy ra khi có đợt khởi phát cấp tính của tình trạng nhiễm trùng, với các triệu chứng kéo dài dưới 3 tuần, dưới 4 đợt trong năm. Bệnh nhân có các triệu chứng viêm đường hô hấp trên, thường tồn tại 5-7 ngày. Nếu tình trạng viêm đường hô hấp trên kéo dài trên 10 ngày và kèm theo các triệu chứng sau thì phải nghĩ đến viêm xoang cấp:


- Sốt trên 39 độ C.


- Thở hôi.


- Ho nhiều về ban đêm.


- Sổ mũi, mũi có mủ vàng hay xanh.


- Nhức đầu.


- Đau vùng mặt, sau ổ mắt, đau răng, đau họng.


- Có thể kèm theo viêm tai giữa cấp.


Viêm xoang mạn là tình trạng viêm nhiễm tại xoang kéo dài trên 3 tháng, không đáp ứng với điều trị nội khoa tối đa; hoặc là tình trạng viêm nhiễm tái phát trên 6 lần trong năm kèm theo có bất thường trên X-quang. Các triệu chứng thường không nghiêm trọng và kéo dài trên 3 tháng:


- Sốt từng đợt, sốt không cao.


- Đau họng tái phát.


- Khan tiếng hay ho khạc, tình trạng nặng hơn vào ban đêm.


- Nghẹt mũi, nước mũi chảy xuống họng.


- Sưng vùng mặt.


- Chảy máu cam.


- Nhức đầu.


- Ù tai, viêm tai giữa.


- Nghẹt mũi không ngửi được mùi.


Để chẩn đoán bệnh, ngoài việc khám lâm sàng, có thể dùng X-quang, nội soi, CT-Scan, siêu âm, MRI.


Các nguyên tắc điều trị viêm xoang là làm giảm triệu chứng, kiểm soát nhiễm trùng, điều trị bệnh nền, bất thường cơ thể học và việc điều trị phải đảm bảo an toàn, kết quả và giá cả hợp lý.


Với viêm xoang cấp, cần dùng kháng sinh, thuốc chống xung huyết mũi giúp thông thoáng các lỗ xoang, dùng corticoid tại chỗ để giảm phù nề niêm mạc mũi xoang. Có thể dùng thuốc làm ẩm mũi, làm lỏng dịch tiết, giúp lông chuyển hoạt động tốt hơn. Có thể điều trị bệnh nền như dị ứng, suy giảm miễn dịch, trào ngược dạ dày thực quản...


Với viêm xoang mạn, phác đồ điều trị tương tự viêm xoang cấp.


Chỉ định phẫu thuật được áp dụng trong những trường hợp sau:


- Viêm xoang mạn không đáp ứng điều trị sau 4-6 tuần sử dụng kháng sinh tối đa.


- Viêm xoang mạn tái phát nhiều hơn 6 lần trong năm.


- Viêm xoang mạn kèm theo những bất thường cơ thể học.


BS Đặng Hoàng Sơn, Sức Khoẻ & Đời Sống

Mục lục

 

 

 

ĐỌC SÁCH

 

MÓN NỢ CŨ

 

Khi dọn về ở bên nhà chồng, chị gặp người đàn bà ấy. Lặng lẽ làm công việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, dọn dẹp…Nói chung là đủ mọi việc. Nước da sạm đen của người trước đây vốn quen phơi mình trong nắng gió duyên hải miền Trung vẫn không che giấu được vẻ hồn hậu, chân chất. Tính bà ít nói, hay lam hay làm, và rất vén khéo. Chị mau chóng nhận ra mình nhiều cảm mến con người ấy.

 

Bà tế nhị và kín đáo giúp chị sớm thích nghi với tập quán sinh hoạt bên chồng. Cô dâu trẻ nhờ thế cảm thấy tự tin hơn khi tập tành chu toàn bổn phận hàng ngày với mẹ chồng, một mẫu người mà chồng chị trước đây từng rào đón là “hơi cổ điển”.Cái cách bà quan tâm đỡ đần cho chị khiến chị cảm động, không khỏi nhớ tới mấy đức tính  được nhắc tới trong Thư gửi tín hữu Ga-lat( 5,22-23) “ nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ”.

 

Khi cơn bão dữ dằn nhất trong lịch sử hoành hành tan tác miền Trung  cũng là lúc bà đau đớn  nhận được tin nhà nhắn vào. Bao nhiêu năm bà tích góp gởi về để chồng cầt lại căn nhà cho ra căn nhà, vui hưởng chưa lâu, trong chốc lát đã trở thành mớ phế liệu hoang tàn. Đã vậy do tiếc của, mải lo cứu vớt tài sản, chồng bà chẳng may  còn mang thương tật.

 

Buổi tối, ngồi cnh cửa, yên lặng nhìn bà vừa nén khóc vừa thu xếp hành trang về quê, chị nghe lòng quặn thắt. Hồi chiều, chị giúi vào tay bà cái phong bì mỏng thì bà đã khóc, nghẹn ngào nắm chặt hai bàn tay chị. Thế rồi, khó khăn lắm, bà mới ngập ngừng khẽ hỏi mượn một món tiền khá lớn để mong trang trải những tổn phí ở quê. Không sẵn nhiều tiền mặt, có vài miếng vàng mẹ cho riêng khi con gái về nhà chồng, chị lén gói đưa luôn.

 

Hơn tháng sau, bà gửi thư vào cho biết chồng  trở bệnh nhiều và xin nghỉ hẳn. Không đá động gì đến món nợ. Mấy năm lặng lẽ trôi qua, chẳng có thêm tin tức gì. Chị nào dám hở môi than với ai trong nhà. Thỉnh thoảng chợt nhớ món nợ, để tự an ủi, chị nhủ thầm : “Thôi, coi như cho đứt là xong!”

 

Hôm nay chị biết mình nhầm. Con trai bà đang ngồi trước mặt chị, gởi lại đúng số vàng người mẹ còn nợ, và kể chị nghe cảnh nhà. Sau khi chồng không qua khỏi, bà cũng suy sụp rồi đau ốm suốt. Trước khi nhắm mắt, chỉ tha thiết dặn dò con trai rán làm ăn, khi nào có thể thay mẹ trả được nợ thì phải lập tức vào Nam.

 

Chị nhìn người con, thử tìm lại vài nét hình bóng người mẹ đã phôi pha trong ký ức chị. Thế rồi chị chợt nhớ tới nửa câu trong sách Châm ngôn (11, 3): “Đức liêm khiết của người chính trực sẽ dẫn lối họ đi…”

 

Dũ Lan Lê Anh Dũng

Mục lục